Skip to main content
Generic selectors
Exact matches only
Search in title
Search in content
Post Type Selectors
Đăng nhập Đăng ký

ĐĂNG NHẬP

Quên mật khẩu

QUÊN MẬT KHẨU

ĐĂNG KÝ MỚI

Tên người dùng:
Mật khẩu:
Email:
Dưa leo tr Trang chủ Kiếm Hiệp Kỳ Hiệp Côn Lôn Kiếm Chương 11: Vân lãnh giao phong đọa nhai phùng tiểu hiệp, Động phòng diệt chúc huy đao cự tân lang

Chương 11: Vân lãnh giao phong đọa nhai phùng tiểu hiệp, Động phòng diệt chúc huy đao cự tân lang

5:35 chiều – 19/09/2024

Bạn đang đọc truyện online miễn phí Chương 11: Vân lãnh giao phong đọa nhai phùng tiểu hiệp, Động phòng diệt chúc huy đao cự tân lang tại dua leo tr 

Trời không còn sớm, Tiểu Nhạn dừng lại một tiểu điếm ăn uống và nghỉ ngơi qua đêm. Trưa hôm sau đã đến Tương Dương thành.

Chợt thấy hai người dáng vẻ như tiểu nhị trong khách điếm cầm thùng vôi màu đi sơn các tường. Tiểu Nhạn liền theo họ thì thấy họ đến trước một nhà tranh vách đất màu vàng, trước cửa cũng có viết năm chữ “Tróc nã Giang Tiểu Nhạn” màu đen. Hai người này cầm cọ nhúng vào vôi màu rồi quét bôi xóa năm chữ đó trên vách.

Tiểu Nhạn vừa giận vừa tức cười, bèn xuống ngựa, đến gần họ, hỏi :

– Chư vị làm gì vậy?

Hai người đó đáp :

– Bọn ta được Hoa Thương Long nhị gia ở đây thuê làm cái việc này, vì trưa hôm nay có một người là Kỷ Quảng Kiệt tôn tử của Long Môn Hiệp dẫn theo hai người dường như bộ đầu. Họ đến đây gặp Long nhị gia, sau đó lấy bút viết đầy đường câu “Tróc nã Giang Tiểu Nhạn”. Khi đó Long nhị gia có mấy lời hơn thiệt với họ rằng: “Giang Tiểu Nhạn hiện giờ là anh hùng bản lãnh tuyệt luân, chốn võ lâm không ai địch chàng nổi. Tháng trước người có đến Tương Dương này, ngay cả Long nhị gia ta cũng phải chịu bại”. Nghe Long nhị gia nói vậy, Kỷ Quảng Kiệt là kẻ hung hăng đã đấm Long nhị gia một quyền, khiến người uất ức té ngã bất tỉnh. Chờ bọn họ đi rồi, Long nhị gia mới mướn bọn ta sơn hết các chữ đó lại.

Tiểu Nhạn nghe Long nhị gia đã vì chàng mà bị Kỷ Quảng Kiệt đánh, lòng càng phẫn hận, bèn nói :

– Kỷ Quảng Kiệt chạy đâu rồi sao?

Hai người quét tường xóa chữ, nói :

– Bọn họ đã đi cách đây nửa ngày. Sau khi đánh Long nhị gia còn hỏi Long nhị gia về hành tung của Giang Tiểu Nhạn nhưng người trả lời không biết. Kỷ Quảng Kiệt bèn nói nếu Giang Tiểu Nhạn có đến Tương Dương thì phải báo cho hắn biết, bằng không thì bảo Tiểu Nhạn hãy đến Trường An hội diện với hắn.

Tiểu Nhạn nghe giận đến trắng bệch cả mặt, rồi trấn tĩnh hỏi :

– Bọn họ từ Trường An đến đây, bây giờ chắc đã trở về nơi đó. Nhưng trước khi đi họ hỏi thăm về Võ Đang sơn.

Tiểu Nhạn vừa nghe nhắc đến Võ Đang sơn, lòng bất giác chấn động. Vì năm đó lúc học võ ở Cửu Hoa sơn lại nghe sư phụ nói Võ Đang sơn ở Tương Dương, võ nghệ nội gia từ đây tương truyền ra. Hiện giờ đạo sĩ trong núi rất đông, hầu hết đều tinh thông võ nghệ. Sau này, nếu đi ngang đó phải hết sức cẩn thận.

Tiểu Nhạn liền hỏi :

– Võ Đang cách nơi này bao xa?

Hai người đó nói :

– Không xa. Ra thành đi về phía bắc cách mấy mươi dặm thì đã thấy rồi.

Tiểu Nhạn có đôi lời chào hỏi rồi dẫn ngựa đi ra.

Đi khỏi Tương Dương thành, lên ngựa ra roi đi về phía Tây bắc. Không xa đã thấy hiện ra trước mắt một dãy núi xanh biếc, ước khoảng cách nơi này hơn trăm dặm đường.

Tiểu Nhạn thúc ngựa chạy nhanh. Chừng bốn, năm mươi dặm, chợt thấy trước mặt có ba tuấn mã đang phi nhanh về phía Võ Đang sơn. Chàng quan sát thì ra đó là ba người của Kỷ Quảng Kiệt.

Lòng chàng có chút do dự, nghĩ thầm :

“Ta phải làm sao đây? Nếu ta vượt qua nhất định phải chiến đấu, như vậy tất phải đả thương Kỷ Quảng Kiệt. Kỷ thực đả?thương hắn cũng chẳng oan, hắn viết chữ tróc nã ta, thực ép ta quá đáng, nhưng hắn là một người hành hiệp trượng nghĩa, việc bố thí ở Chính Dương khiến ta bái phục. Huống hồ, hắn là tôn tử của Long Môn Hiệp. Trước mắt lại đến Võ Đang sơn, tổ sư Trương Tam Phong đắc đạo ở nơi đó, bọn ta lại tàn sát lẫn nhau trong chốn tôn nghiêm như vậy há không phải là thất kính sao?”.

Thoáng chốc, xuất hiện phía trước một dòng sông chắn ngang, ba người Kỷ Quảng Kiệt tìm bến đò mà qua sông. Tiểu Nhạn cũng đi theo, nhưng chờ họ lên thuyền qua sông rồi, chàng mới gọi thuyền. Chàng hỏi thăm thuyền phu mới biết sông này là Nam Giang thông qua Hán Thủy. Qua sông là đến Cốc Thành huyện, nơi đó cách Võ Đang sơn không xa. Muốn đến Võ Đang sơn phải xuống ngựa ở Cốc Thành, vì dưới chân núi Võ Đang không có khách điếm. Hơn nữa, cưỡi ngựa vào Võ Đang, đạo sĩ không thích lắm.

Tiểu Nhạn ngạc nhiên nên hỏi tiếp :

– Đạo sĩ trên núi đông không?

Thuyền phu đáp :

– Rất đông. Ngộ Chính quan đã có hơn bốn mươi đạo sĩ rồi. Huyền Võ miếu đạo sĩ càng đông hơn. Các đạo sĩ này bản lĩnh cao cường. Bảo tiêu hay quan nhân đi trong núi này cách hơn mười dặm đều xuống ngựa.

Tiểu Nhạn ngạc nhiên thầm nghĩ :

“Ta học với danh sư Võ Đang phái mười năm, còn không biết phong cảnh Võ Đang ra sao, kiếm pháp chân chính của đạo gia thế nào, có khác biệt gì với người giang hồ đã học. Ta cũng muốn lên núi thỉnh giáo xem sao, đồng thời có thể biết Kỷ Quảng Kiệt lên núi làm gì?”.

Qua Giang Nam là đến Cốc Thành, Tiểu Nhạn vào tây môn tìm khách điếm.

Lúc này, trời đã vào chiều, Tiểu Nhạn dặn điếm bảo đem cơm.

Khi tiểu nhị đem cơm vào, thấy Tiểu Nhạn đang ngồi trên bàn có đặt hành lý và bảo kiếm, hắn bèn hỏi :

– Khách quan đi về đâu?

Tiểu Nhạn nói :

– Về Võ Đang.

Tiểu nhị thăm dò :

– Khách quan có phải tiêu đầu không?

Tiểu Nhạn đáp :

– Trước kia ta có đi mấy chuyến bảo tiêu về Giang Nam. Hiện giờ không làm nữa, muốn về nhà ở Hán Trung thăm viếng. Lần này thuận tiện muốn ghé lên Võ Đang thắp nén hương cho Trương Tam Phong chân nhân.

Tiểu nhị nói :

– Ngộ Chân quan còn là tiểu miếu. Trên núi có một đại miếu là Chân Võ miếu, Chân lão gia gia đã đắc đạo nơi đó. Chân Võ gia gia trong tay có Qui Xà nhị tướng linh hiển cực Kỷ, thường ứng hiện ra ngoài.

Hắn chỉ bảo kiếm của Tiểu Nhạn, rồi nói :

– Khách quan, bảo kiếm này cũng không được mang lên núi. Năm dặm trên núi có một nơi là Giải Kiếm tuyền, bất luận là địa vị và bản lĩnh thế nào, người đó đến nơi này cũng phải tháo kiếm liệng xuống khe suối, nếu không Chân Võ gia gia sẽ phẫn nộ, các đệ tử của tổ sư cũng không đồng ý.

Tiểu Nhạn vội hỏi :

– Đệ tử của Tam Phong tổ sư hiện giờ còn có ai?

Điếm nhị không đáp câu này, mà kể về sự tích cùng với huyền thoại của Huyền Võ chân đế :

– Trước kia có một vị đại tướng quân là quan nhất phẩm đương triều, thống lĩnh tam quân. Một lần, người đến Võ Đang thắp hương, đi đến Giải Kiếm tuyền, các tướng khuyên người tháo kiếm để lại, nhưng tướng quân đó không nghe. Nào ngờ, lên núi không được hai dặm đã gặp cuồng phong nổi dậy, có một con linh xà to lớn phóng thẳng vào người, vị đại tướng quân sau đó kinh hãi, lo lắng quá mà chết. Thì ra con rắn này chính là Linh Xà tướng quân trong tay Chân Võ gia gia. Tượng thần của Chân Võ gia gia, tay cầm Thất Tinh kiếm, lưng đeo hoàng Kỷ, hai bên có Linh Xà nhị tướng, nên không muốn để cho phàm nhân mang kiếm đi trước mặt người. Ngay cả tượng của Trương tổ sư cũng cầm phất trần chứ không được cầm bảo kiếm. Ngộ Chân miếu, đạo gia đắc đạo rất đông hơn bốn mươi người, nổi tiếng nhất có Thất Đại Kiếm Tiên, nhưng họ cũng không dám cầm kiếm xuất quan.

Thần thoại này tiểu nhị kể rất thành thục, dường như trong vòng một trăm dặm chu vi Võ Đang sơn ai cũng biết việc này.

Nói xong, điếm nhị dặn Tiểu Nhạn :

– Ngày mai, khách quan ngàn lần không được mang kiếm lên núi, nếu không sẽ xảy ra đại hoạ.

Tiểu Nhạn cười, gật đầu nói :

– Đương nhiên rồi. Ta đi dâng hương đâu dám xúc phạm đến thần nhân.

Lòng lại nghĩ :

“Không biết Kỷ Quảng Kiệt có biết quy củ này không. Nếu ngày mai hắn lên Võ Đang lưng vẫn mang bảo kiếm, đi đến đâu viết cáo thị tróc nã ta đến đó, khi ấy e rằng không chỉ trên Chân Võ gia gia, Qui Xà nhị tướng nổi giận, mà Thất Đại Kiếm Tiên ở trong quan cũng chẳng dung cho hắn”.

Nghĩ đến đó, chàng chợt mỉm cười, có vẻ hả dạ. Thoáng chốc dùng cơm xong, chàng ra ngoài dạo bước nhàn du tất cả khắp nơi trong thành, thấy thương điếm trên đường rất nhiều, khách bộ hành qua lại đông đảo.

Đến cửa nam thì thấy một người thấp bé mặc áo lụa trắng, lưng mang bảo kiếm, chạy ngược về phía mình. Tiểu Nhạn nhận ra đó là Kỷ Quảng Kiệt, lòng thấy hưng phấn.

Chàng theo dõi thấy Kỷ Quảng Kiệt chạy vào một tửu điếm ven đường, Tiểu Nhạn cũng theo vào.

Lúc này, trong tiểu điếm đã lên đèn, tửu khách ở bên trong cũng không đông. Tiểu Nhạn chọn lấy một cái bàn khuất tối mà ngồi. Quảng Kiệt ngồi cách chàng hai cái bàn, hắn tháo kiếm đặt lên bàn gọi rượu tự mình rót uống.

Tiểu Nhạn nghĩ :

“Chốc nữa hai người của Côn Lôn phái sẽ đến. Chí Viễn biết mình, nếu lão ta nhận ra mình tất sẽ xảy ra ác chiến, dù mình không muốn đánh với họ cũng không được”.

Nhưng chờ hồi lâu cũng chẳng thấy ai đến.

Tiểu Nhạn vừa uống rượu vừa nhìn Kỷ Quảng Kiệt, thấy Quảng Kiệt đứng dậy, cao giọng nói :

– Tiểu bảo, mang bút mực đến đây, ta muốn viết ít chữ lên tường.

Tiểu bảo đứng trên quầy nói :

– Đại gia, tường vừa sơn đó, viết chữ lên không được đâu. Đại gia muốn viết chữ thì nơi này có giấy, viết xong tiểu nhân sẽ dán lên tường. Ở đây cũng có mấy vị tú tài làm thơ viết lên đó, có lúc khách nhân hoặc người qua đường thấy thơ hay, cho tiền bạc tiểu nhân rồi gỡ lấy bài thơ đem về.

Quảng Kiệt cười nhạt nói :

– Mi sợ ta viết lên tường à? Mi muốn có tiền không? Đến đây ta cho hai lượng coi như tiền giấy bút.

Tiểu bảo vừa nghe hai lượng liền mau mắn đem bút mực tới, mài mực cho hắn.

Tiểu Nhạn lúc này càng giận dữ biến sắc, đứng dậy thấy rõ Kỷ Quảng Kiệt cầm bút viết lên tường những chữ “Tróc nã Giang Tiểu Nhạn”. Chàng giận quá muốn tung quyền đánh hắn, nhưng rán nhẫn nại chờ xem thì thấy Kỷ Quảng Kiệt viết xong năm chữ lại đề ba câu thơ :

Bảo kiếm xuất phong trần,

Tứ phương thôi hiệp khí,

Nghĩa long môn Kỷ tài,

Phong mang thương vị.

Hung thủ thiên kim trân,

Dương tiên vạn thần du,

Mạo hí Giang Tiểu Nhạn,

Hà năng dữ ngã đấu.

Huề kiếm lai Võ Đang,

Yên vân cái thương bôn,

Dao hữu tâm nhân,

Vi ngã ảo mộng tưởng.

Tiểu Nhạn đứng xem buột miệng khen :

– Hay lắm!

Kỷ Quảng Kiệt định viết tiếp câu thư thì nghe Tiểu Nhạn nói, cảm thấy mất hứng khởi, nhìn chàng nửa mắt. Nhưng vì Tiểu Nhạn không có mang kiếm, lại ăn mặc giản dị nên hắn không chú ý, ném tiền bước ra ngoài. Tiểu Nhạn cũng vội trả tiền rượu, rồi đi theo Quảng Kiệt đến một khách điếm.

Tiểu Nhạn để ý nhìn rõ cửa phòng của hắn trú ngụ, chàng mới thủng thẳng đi ra về phòng mình.

Tối đến, Quảng Kiệt ở trong phòng chuẩn bị bút mực định nghĩ ra một bài thơ hay để?khi thành thân cùng A Loan sẽ đưa nàng xem, chứng tỏ mình là kẻ văn võ toàn tài, nhưng bất luận hắn cấu tứ thế nào, câu thơ thứ tư lúc sáng cũng không viết ra. Trước mắt chỉ có phảng phất bóng hình diễm lệ yêu kiều của A Loan, lòng thật đắc ý, thầm nghĩ :

“Mình thật không uổng kiếp đời này. Trong lúc vô ý qua Quang Trung tình thế khiến xui để mình quen biết với một nữ hiền tài mạo song toàn như vậy để kết tình phu phụ. Thực là thiên phối lương duyên. Lần này, mình về Nam để tìm và đả bại Giang Tiểu Nhạn cho nàng bái phục. Tuy nhiên, đã đi mấy trăm dặm, chữ tróc nã Giang Tiểu Nhạn đã viết mấy trăm lần vẫn không kinh động được Tiểu Nhạn lộ diện, đủ rõ hắn sợ mình. Hơn nữa, việc mình đã đem chuyện hôm đó một hiệp khách không rõ danh tánh đã giúp cho hai bao ngân lượng cho mình bố thí cho Chí Viễn, Chí Diệu nghe. Từ hôm đó, bọn họ không dám ở chung phòng của mình, trên đường cứ hết sức đề phòng lo sợ, đủ thấy bọn Côn Lôn phái đã bị Giang Tiểu Nhạn làm cho táng đởm kinh tâm hết rồi, dù mình có gặp Tiểu Nhạn thì Chí Viễn cũng không dám chỉ ra. Như vậy tìm Tiểu Nhạn cả đời này, e rằng cũng không thấy. Chi bằng ngày mai lên Võ Đang ngoạn một lần, chiều sẽ trở về Quang Trung tổ chức hôn lễ cùng A Loan. Sau đó nghĩ cách đối phó với gã họ Giang, đồng thời cũng phải điều tra để tìm ra vị hiệp khách giúp mình lúc đó là ai?”.

Quảng Kiệt nghĩ ngợi hồi lâu, cảm thấy mỏi mệt, hắn không thu dọn bút mực, chỉ tắt đèn mặc chiếc áo lụa trắng lên giường, giây lát sau đã ngủ say.

Trải qua đêm đó thật yên tĩnh chẳng có việc gì.

Hôm sau, vừa mở mắt đã thấy ngoài kia nắng hồng sáng rõ, trời đã sáng rồi, cửa phòng vẫn đóng. Quảng Kiệt ngồi dậy nhận thấy áo mình dính mực, cứ nghĩ vì hôm qua mình làm thơ trên tay dính mực nên mới lưu lại áo, nên chẳng để ý. Mở cửa phòng bảo tiểu nhị mang nước cho hắn rửa mặt.

Điếm nhị vừa vào đã trợn mắt nhìn chăm chăm vào phía sau lưng Quảng Kiệt, khiến hắn tức giận nói :

– Mau đem nước rửa mặt đến đây, còn đứng nhìn cái gì? Mi điên à?

Điếm nhị mang thau nước đem vào, rồi mau mau đi ra, nhưng chốc chốc cứ ngoảnh đầu lại nhìn. Quảng Kiệt cảm thấy vừa giận vừa tức cười.

Lúc này, Chí Viễn cũng đã thức dậy vào phòng Quảng Kiệt hỏi :

– Quảng Kiệt, hôm nay chúng ta lên Võ Đang sơn không? Ta nghĩ bất tất…

Đột nhiên, Chí Viễn cũng trợn mắt nhìn thẳng, kinh ngạc hỏi :

– Tại sao trên lưng áo của thiếu hiệp cũng viết chữ nữa vậy?

Kỷ Quảng Kiệt hoảng hốt, cởi chiếc áo lụa trắng đang mặc ra, thì thấy sau lưng viết năm chữ “Tróc nã Giang Tiểu Nhạn”. Hắn đổ mồ hôi hột, cảm thấy lạnh mình, lòng nghĩ :

“Đây là do ai làm? Đêm qua thừa lúc ta ngủ say, trộm vào phòng đùa cợt ta như vậy?”.

Tức thì từ hoảng sợ hắn biến thành phẫn nộ, gương mặt trắng bệch.

Chí Viễn ra vẻ tiếc nuối :

– Thiếu hiệp xem chiếc áo lụa đẹp đẽ thế kia, sao lại viết chữ lên làm chi?

Quảng Kiệt giả ý cười nói :

– Những chữ này ta viết mãi đến độ thuộc nằm lòng. Đêm qua ta uống rượu có chút say sưa, nghĩ đến tên tiểu tặc tử Giang Tiểu Nhạn, cảm thấy tức tối nên mới viết vào.

Nói rồi, giận đùng đùng cầm lấy chiếc áo vò trong tay. Sắc mặt Chí Viễn có phần thay đổi, lòng thấy nghi hoặc, nhưng giả ý không biết gì, nói :

– Giang Tiểu Nhạn có lẽ là chạy xa. Bọn ta bất tất còn phải đuổi theo truy tầm hắn, trở về Trường An đi. Nếu chúng ta đi quá lâu, nơi ấy sợ xảy ra chuyện.

Quảng Kiệt giả ý như không biết gì, hắn chỉ bực dọc nói :

– Chờ một lát chúng ta hãy thương lượng.

Nghe Quảng Kiệt nói vậy, Chí Viễn lui ra về phòng mình.

Quảng Kiệt cứ mải hậm hực, đứng hồi lâu hắn lại lấy chiếc áo ra nhìn hàng chữ viết phía sau, thấy bút tích rất lạ không biết là của ai. Lòng buồn bực, cầm chiếc áo đó xé nát, rồi thay áo khác, cầm bảo kiếm rời khỏi điếm.

Quảng Kiệt hầm hầm đi trên đường nhưng không thấy ai có vẻ khả nghi, thầm nghĩ :

“Mình nhất thế anh hùng, sao lại bị người bỡn cợt đến nỗi này?”.

Hắn đi vào tửu điếm nơi hôm qua đã đề thơ, lớn giọng :

– Đem rượu ra đây!

Chợt hắn thấy phía dưới ba câu thơ của mình đã viết lên tường hôm qua, lại còn thêm một câu nữa, chữ viết đã to lại đầy châm chọc :

Tác dạ nhược phi lư tình diện, Thử thời nhữ tảo tang dư sinh.

(Uổng tự xưng hào kiệt, Kỷ thực người bình bình )

Quảng Kiệt nhìn hàng chữ mà nộ khí đùng đùng, gọi điếm nhị la lớn :

– Tai sao mi dám để người khác viết lên thơ của ta.

Tiểu bảo nói :

– Người đó cũng cho tiểu nhân hai lượng. Tiểu nhân cũng không biết hắn viết gì nữa.

Quảng Kiệt vung quyền hỏi :

– Người đó là ai? Hình dáng ra sao?

Tiểu bảo sợ sệt trả lời :

– Là một thiếu niên trẻ tuổi, hắn vừa mới viết xong.

Đang nói chuyện chợt nghe ngoài cửa có tiếng cười ha hả nói :

– Kỷ Quảng Kiệt, nếu mi có bản lãnh hãy theo ta đến núi Võ Đang hội diện.

Kỷ Quảng Kiệt không chần chờ, như mũi tên phóng ra khỏi điếm, tay cầm bảo kiếm, giận dữ mắng :

– Tiểu tặc, đừng chạy!

Hắn nhìn thấy một con hắc mã, cưỡi trên lưng là một người mặc áo xanh, không thèm ngoảnh đầu lại mà chạy thẳng về phía nam.

Quảng Kiệt chạy đuổi theo một đoạn nhưng biết không thể đuổi kịp, nên trở vào điếm kéo ngựa ra không kịp để yên lên, cấ? tốc rượt theo.

Lúc này Chí Viễn, Chí Diệu hay được chạy đến trước đầu ngựa Quảng Kiệt hỏi :

– Kỷ thiếu hiệp chạy đi đâu vậy?

Quảng Kiệt tức tối nói :

– Các vị đừng chen vào.

Dứt lời vung roi cho ngựa phi như bay về phía nam, rồi chuyển sang tây chạy thẳng lên Võ Đang sơn.

Kỷ thực, Tiểu Nhạn đã ẩn núp lại nơi rừng tùng rậm rạp. Chàng thấy hắn cầm kiếm, cưỡi ngựa chạy về phía tây, nên quay ngựa đi trở lại nơi khách điếm mà Quảng Kiệt trú ngụ, lớn tiếng kêu :

– Lưu Chí Viễn ra đây!

Chí Viễn, Chí Diệu hai người đang ở trong phòng buồn bã, lo lắng. Cả hai cho rằng có một người có bản lãnh siêu quần đang âm thầm theo Kỷ Quảng Kiệt. Xét theo tình hình thì người này có lẽ không có ác ý, nhưng cũng chẳng có hảo ý. Đang luận đàm chợt nghe trong viện có tiếng gọi tên mình.

Chí Viễn nhìn ra đó là một thiếu niên mặc áo bố xanh, dắt hắc mã đang đứng trước cửa, lòng cảm thấy ngạc nhiên, bước ra trước hỏi :

– Tiểu huynh đệ đang tìm Chí Viễn sao? Bằng hữu quý tính là chi? Tìm Chí Viễn có việc gì?

Nhưng khi đến gần, Chí Viễn chợt biến sắc, miệng lắp bắp :

– Ây da…

Tiểu Nhạn gật đầu nói :

– Các hạ theo ta ra đây, ta có mấy lời muốn nói.

Chí Viễn thình lình không còn tự chủ bước theo sau. Tiểu Nhạn trấn an :

– Các hạ đừng lo sợ. Chúng ta vô thù oán.

Chí Viễn giờ mới cảm thấy an tâm, đến gần nói :

– Tiểu huynh đệ mười năm không gặp giờ đã cao lớn lắm rồi. Nghe nói võ nghệ đã thành tựu?

Tiểu Nhạn nói :

– Nơi này không tiện, các hạ có thể theo ta về phía nam nói mấy câu. Ta không có ý xấu, nếu không đêm qua đã lấy mạng ba người rồi.

Chí Viễn bước theo ra khỏi nam quan đến một nơi rộng rãi có một trụ đá khắc mấy chữ “Trương Tin trụ giới”. Tiểu Nhạn dắt ngựa đến bên cạnh, rồi quay người nói với Chí Viễn :

– Lúc nhỏ, phụ thân ta bị Bào lão đầu giết chết, ta ở nhà lão chịu đựng biết bao nhục nhã, các hạ đều biết. Tuy các hạ cư xử với ta chẳng chút hảo tâm, nhưng cũng không ác ý. Giờ đây ta đã khổ luyện được tuyệt kỹ rồi, để ta mua vui cho các hạ.

Nói xong, Tiểu Nhạn vận sức vung quyền đấm vào trụ đá. Chỉ nghe “bình” một tiếng, trụ đá rắn chắc, to lớn bị gãy làm hai đoạn như vết chém, còn tay Tiểu Nhạn không chút hề hấn, mặt không hề đổi sắc.

Tiểu Nhạn tự đắc nói :

– Đây chỉ là ngoại công phu, còn nội công phu các hạ xem chưa chắc đã hiểu.

Chí Viễn tuy run sợ, sắc mặt trắng bệch nhưng cố trấn tĩnh, miễn cưỡng nói :

– Ta đã sớm biết tiểu huynh đệ sẽ học xong võ nghệ mà. Lần này ta theo Quảng Kiệt ra ngoài cũng vì hết cách rồi, ngay cả Chí Diệu sư huynh cũng vậy. Huynh đệ cũng hiểu rõ quy củ của Côn Lôn phái ta thật nghiêm ngặt, lão sư bảo làm gì phải tuân theo cái đó.

Tiểu Nhạn phẫn nộ nói :

– Đừng nhắc đến Côn Lôn phái. Bọn Bào Chí Lâm, Cát Chí Cường, Long Chí Dương, Long Chí Khởi đều là thù nhân của ta. Ta quyết lấy đầu chúng. Còn những kẻ còn lại đều là người vô oán, chỉ cần không xâm phạm ta, ta sẽ chẳng phương hại ai.

Chí Viễn hơi run người nói :

– Như vậy cũng không phải là biện pháp. Thù hận hai nhà của đôi bên không ai hòa giải được, nhưng bọn ta là đồ đệ của Bào Côn Lôn, lão sư phái bọn ta theo Quảng Kiệt, tất chúng ta phải tuân, nhưng gặp mặt ta sẽ không chỉ ra huynh đệ là Giang Tiểu Nhạn.

Tiểu Nhạn gật đầu :

– Thôi được. Bất luận gặp ở đâu cũng không được nói ta là ai, tuy nhiên cũng cần cho các hạ rõ ta chẳng phải sợ ai đâu.

Chí Viễn gật đầu :

– Ta hiểu. Đêm đó ở Chính Dương huyện đưa đến hai bao ngân lượng hơn bảy trăm bạc, hôm qua viết chữ lên lưng áo Quảng Kiệt ta đều biết. Chỉ trừ huynh đệ mười năm khổ luyện ra, thì còn ra, thì còn ai bản lãnh cao siêu như vậy. Tiểu tử Quảng Kiệt hiện giờ vẫn còn cao ngạo tự cho mình võ nghệ tuyệt luân, Kỷ thực huynh đệ không muốn hạ độc thủ, chứ nếu không tên Kỷ Quảng Kiệt cũng đã chết từ lâu.

Tiểu Nhạn nghe Chí Viễn nói có chút hài lòng, nên lên tiếng :

– Được rồi. Giờ ta có việc phải đi tìm Kỷ Quảng Kiệt đây.

Dứt lời, lên ngựa ra roi chạy về phía Võ Đang sơn.

Núi Võ Đang vốn là một sơn nhạc nổi tiếng. Núi này thuộc dãy Ba Sơn, chu vi bốn trăm dặm, có ba mươi sáu huyền nhai, bảy mươi hai cao phong. Cao nhất là Viết Thiện Trụ phong, đó chính là nơi Chân Võ tu luyện.

Ngoài ra còn có Nam Nhai Ngũ Long phong, Tử Tiêu phong, Triển Kỷ phong, các nơi đều có quan đình của đạo gia. Tất cả do Trương Tam Phong tổ sư khởi xướng xây dựng.

Trương Tam Phong là người đời Tống, sống đến hơn hai trăm tuổi, thời Minh Thành tổ, mới tịch diệt. Nội gia tuyệt kỹ đều do người sáng lập sở truyền lại.

Đạo sĩ trên Võ Đang người nào cùng được mật truyền, nhưng không dễ gì họ biểu thị ra ngoài, nên người võ lâm khó lường định cao thấp thế nào.

Hiện giờ, sáng sớm sương núi còn chưa tan, gió núi lạnh lẽo. Cả hai nội gia tuyệt nghệ là Quảng Kiệt và Tiểu Nhạn trước sau cùng lên núi Võ Đang.

Quảng Kiệt đi trước, hắn thúc ngựa lên sơn đạo, lòng vô cùng tức giận thầm nghĩ :

“Kẻ nào dám đùa bỡn ta? Kẻ nào dám giỡn với đích tôn của Long Môn Hiệp? Ta không cùng hắn tỷ võ không được”.

Tiếng chân ngựa giẫm lạo xạo trên đã núi làm kinh động sơn điểu, khiến chúng bay loạn cả lên. Vượt đến một đỉnh núi cao, chợt nghe tiếng suối chảy róc rách bên tai. Từ trên đỉnh núi cao sà xuống mấy cánh chim ưng. Chúng lượn vòng rồi hạ xuống ngang chân ngựa của Quảng Kiệt, rồi vụt liệng cánh chao người bay vút lên không.

Quảng Kiệt tiếc lúc này mình lại không có sẵn cung tên, lòng nghĩ :

“Nếu có cung tên mấy con phi điểu này khó thoát tay ta”.

Hắn thúc ngựa đi tiếp tục, đồng thời mắt nhìn quanh quan sát, nhưng ngay cả bóng một tiều phu cũng chẳng có.

Lúc đi qua một đỉnh núi, nửa chợt phía đối diện trên vách đá cao, một dòng thác đổ xuống ào ào tia nước bắn tung tóe, giầy của Quảng Kiệt cũng bị ướt.

Phía dưới thác này là một hẻm sâu rộng, nước rơi xuống chảy thành dòng như một cơn sông. Quảng Kiệt nhìn lên chợt trông thấy trên vách có khắc ba chữ “Giải Kiếm tuyền”. Hắn chẳng rõ nơi đây có sự tích gì, hắn thầm tiếc không đem theo bút mực để có thể leo lên cao mà viết năm chữ “Tróc nã Giang Tiểu Nhạn” bên dưới là chữ ký của hắn. Sau này Tiểu Nhạn có đến nơi này mà trông thấy, tất phải táng đởm kinh tâm.

Thế là từ trên sơn lộ, hắn phóng ngựa chạy về đó. Nào ngờ, phía đó có một tảng đá to lớn chặn đường, ngựa dừng lại có ý thoái lui. Quảng Kiệt dùng sức ra roi vút ngựa. Con ngựa hoảng sợ bốn vó cất lên như một bạch long, bay vọt qua tảng đá.

Lại thấy mấy con chim ưng vừa rồi quay lại, Quảng Kiệt vội dùng kiếm chém vào một tảng đá, rồi nhặt mấy viên đá vụn, chờ bọn ưng điểu bay đến gần, vung tay ném chúng, một con trúng phải cánh, như diều đứt dây cho nghiêng, lao thẳng xuống vực sâu mấy mươi trượng, đột nhiên nó gắng hết sức đập cánh bay ngược lên, miệng kêu Quảng quác, cố gắng hai ba lần nó đã lên khỏi vực sâu mà bay về phương xa.

Kỷ Quảng Kiệt khoái trá cười ha hả, thình lình hắn quay nhìn phía sau thì thấy trên đỉnh núi cao, một đạo sĩ đang đứng uy nghiêm dưới gốc tùng, chòm râu đen dài phất phơ đang chăm chú nhìn hắn.

Quảng Kiệt xoay người ngẩn mặt nhìn lên hỏi :

– Đạo trưởng, vừa rồi có thấy một người cưỡi hắc mã lên núi không?

Đạo sĩ phía trên cũng lớn tiếng nói mấy câu, nhưng vì tiếng suối đổ ì ầm át mất, nên chẳng nghe được câu nào, Quảng Kiệt bèn cột ngựa vào gốc cây, cầm kiếm đi lên thì thấy đạo sĩ cũng đang xuống núi, một tay khoát, cao giọng nói :

– Không được mang kiếm. Thí chủ không thấy trên vách núi có ghi chữ “Giải Kiếm tuyền” sao? Đó là tiên bút của Trương Tam Phong tổ sư, lệnh không ai được mang kiếm lên núi, nếu không Chân Võ gia sẽ nổi lôi đình.

Quảng Kiệt trợn mắt nói :

– Lão không phải Chân Võ gia, lão cũng không phải Trương Tam Phong sao ngăn được ta! Có người kích động hẹn ta lên núi này tỷ võ. Võ nghệ của ta chính là của Võ Đang phái, thì Võ Đang sơn này chính là nhà cũ của ta, ta thích gì làm đó, ai ngăn được ta!

Đạo sĩ nghe Quảng Kiệt nói, bất giác đổi thái độ hỏi :

– Thí chủ thuộc chi nào của Võ Đang phái? Võ Đang phái có tất cả ba chi: một ở Quang Trung, trước kia có đại hiệp Vương Tông truyền ra mấy đệ tử, nhưng trăm năm nay chi này đã tuyệt truyền rồi. Còn một chi ở Trần Châu, Ôn Châu đều do sư phụ sở truyền, đời này chỉ có Thục Trung Long một người. Chi còn lại ở Nam sở do Vương Lai Uý sư phụ truyền, hiện giờ cũng không nghe có người nào. Ngoài ra còn có Thiết Trượng Tăng, Trường Giang Nhạn, nhưng họ chỉ bất quá học trộm một chút võ nghệ nội gia không chính tông của Võ Đang.

Kỷ Quảng Kiệt nghe nói bất giác ngạc nhiên, lòng nghĩ :

“Sao đạo sĩ này biết rõ chi phái Võ Đang như vậy, có lẽ lão biết võ nghệ đó”.

Bèn cười nói :

– Đạo trưởng nói không sai. Nhưng mà võ nghệ Võ Đang phái truyền ra ngoài mấy trăm năm nay. Hiện giờ có nhiều người tài nghệ của họ còn cao hơn chính các sư phụ trên núi sở truyền. Ta họ Kỷ, người Hà Đông, tổ phụ là Long Môn Hiệp Kỷ Quân Dực, đạo trưởng có nghe qua tên này không?

Đạo sĩ vừa nghe đã kinh ngạc nói :

– Thì ra thí chủ là hậu nhân của Long Môn Hiệp. Vậy càng tốt. Tổ phụ người võ nghệ vốn là của Thiếu Lâm, sau mới đến Võ Đang học nghệ. Võ công của lão có từ hai môn mà thành, không hổ danh một hiệp khách. Nhưng hai mươi năm trước lão hiệp mấy lần đến Võ Đang này cũng đều không dám mang kiếm lên núi, thí chủ là tôn tử của người, tại sao lại kiêu ngạo như vậy. Ta chẳng phải đạo sĩ trên núi này, chỉ là vân du đến đây, nhưng gặp thí chủ không hiểu lề luật chốn này, mới nói mấy lời hảo ý. Nếu gặp phải người của Ngộ Chân quan, các đạo sĩ này không có khách sáo như ta đâu.

Quảng Kiệt giận dữ nói :

– Lão không phải người núi này thì tốt nhất đừng xen vào việc của ta. Chân Võ gia cho dù có xuất hiện thì cũng chỉ trách tội ta, vô can đến lão.

Dứt lời, hắn không màng đến vị đạo sĩ đó, nhảy lên vách núi nhìn chung quanh thì thấy núi tiếp núi, nối dài liên miên, sương mây mù mịt, ngay cả bóng mấy chim ưng vừa rồi cũng mất biệt, càng không thấy bóng người hẹn tỷ đấu với mình. Lòng cười thầm :

“Thật là tên thất phu, hẹn ta đến đây lại chạy rồi. Có lẽ hắn là cường đạo, thuật dạ hành có hơn ta một chút, nhưng tỷ võ không xong, nên không dám đến”.

Thế rồi, Quảng Kiệt lại kêu to mấy tiếng, nhưng ngoài tiếng vọng của vách núi ra, không có ai đáp lời, ngoảnh xem đạo sĩ đã đi rồi.

Quảng Kiệt cảm thấy mất hứng, lòng nghĩ :

“Hay là ta đi lên xem võ nghệ bọn đạo sĩ xuất chúng thế nào?”.

Hắn cầm kiếm đi dần lên, thấy quanh đây nơi đâu cũng non xanh cỏ biếc, vô cùng yên tĩnh tịnh không bóng người.

Lại vượt qua một ngọn núi thấy thấp thoáng trước mặt lộ ra một bức tường đỏ. Quảng Kiệt bước nhanh lên thì thấy đây là một miếu đình không to lớn lắm.

Hắn tìm đến sơn môn, thấy trên bảng khắc ba chữ “Huyền Vi Quan”. Sơn môn đóng rất chặt, tiếng chim kêu hót, lá thông vi vu, cảnh vật dường như chốn bồng lai.

Quảng Kiệt dùng kiếm gõ khóa hồi lâu cũng chẳng có người ra mở cổng. Quảng Kiệt tức giận, nhảy vút lên tường nhìn vào trong. Trong này cũng lặng yên không bóng người, không khí thật yên lặng.

Quảng Kiệt nhảy vào nội viên, cầm kiếm đến trước Đông Quảng điện, hỏi vội vào :

– Có ai ở đây không?

Không có tiếng đáp ở bên trong, Quảng Kiệt lại nghe tiếng chân nhè nhẹ ở sau lưng, hắn vội quay đầu thì thấy đạo sĩ râu dài lúc nãy, thân mặc áo ngắn, một tay cầm kiếm, một tay điểm vào sống lưng mình thế xuất nhanh như chớp.

Quảng Kiệt mau lẹ nghiêng người né tránh rồi vung kiếm. Chỉ nghe vang lên “keng” hai thanh kiếm chạm nhau. Kỷ Quảng Kiệt giận mắng :

– Hay lắm! Đạo sĩ mi dám ám toán ta!

Đạo sĩ râu dài lại vung kiếm bước tới phẫn nộ nói :

– Hai trăm năm chưa có ai dám cầm kiếm lên núi này. Mi là cường đạo ở đâu sao còn dám cuồng ngôn tự xưng là môn đồ Võ Đang. Xem kiếm đây!

Quảng Kiệt vội vung kiếm đón lấy kiếm đối phương. Phía sau lưng chợt nghe có tiếng cửa phòng mở. Quảng Kiệt quay lại nhìn thấy ở đông môn có một đạo sĩ trẻ tuổi bước ra, tay cầm bảo kiếm, hét lớn :

– Đi ngay!

Quảng Kiệt một mặt thi triển kiếm pháp, một mặt cười nói :

– Đã đến đây to không đi. Võ Đang sơn là nhà của ngoại công ta. Ta muốn thi triển võ nghệ cho bọn đạo sĩ các ngươi thưởng lãm.

Quảng Kiệt không chút sợ hãi, một thanh bảo kiếm biến hóa như rồng bay phượng múa, kiếm Quảng lấp loáng theo thân pháp uyển chuyển linh hoạt của hắn, khiến hai đạo sĩ tuy kiếm pháp tinh thục, nhưng vẫn không sao địch nổi hắn, bị hắn bức đến liên tiếp thoái lui sắp đến hậu viện.

Bất ngờ từ sau hậu viện bước ra ba đạo sĩ cầm kiếm, nhất tề xông lên tấn công Kỷ Quảng Kiệt. Năm kiếm trước sau phân ra vây chặt hắn vào giữa.

Quảng Kiệt với một thanh kiếm tung hoành trước đánh sau đỡ, trên đâm dưới chém ngang dọc. Thình lình Quảng Kiệt thay đổi chiến pháp vừa đánh vừa lùi, đi đến trước sơn môn, hắn vọt người phi thân lên đầu tường.

Thiếu niên đạo sĩ cũng cầm kiếm vọt lên theo, hai kiếm chạm nhau. Quảng Kiệt vội nhảy ra khỏi miếu, chạy ngược về đỉnh núi vừa rồi. Phía sau năm đạo sĩ rượt theo. Quảng Kiệt nói :

– Các người có dám lên đây không?

Hắn đứng trên một vách núi nhìn xuống, cao ngạo cười nói.

Lão đạo sĩ và thiếu niên đạo sĩ chống kiếm chạy lên. Quảng Kiệt nghiêng người dùng kiếm đánh xuống. Qua lại hơn mười hiệp, không ai có thể lên vách núi đó. Còn Quảng Kiệt một tay cầm kiếm hộ thân, một tay bám vào vách núi tiếp tục bò dần lên. Năm đạo sĩ không chịu thoái lui vẫn đuổi theo, đồng thời nhất tề kêu lớn :

– Chỉ cần mi buông kiếm xuống, bọn ta sẽ tha cho mi đi.

Quảng Kiệt vẫn cười nhạo, vừa thoái lui vừa cầm kiếm quơ quơ chọc cười mấy đạo sĩ. Mấy đạo sĩ tức giận cực Kỷ luôn bám theo sau.

Thoáng chốc đến một sơn lộ, Quảng Kiệt lại giao chiến với mấy đạo sĩ. Càng đánh hắn càng phấn chấn. Năm đạo sĩ bị bảo kiếm thần xuất quỷ nhập của hắn dồn cho không đường bước tới.

Lúc này, chợt Quảng Kiệt nghe phía sau có mấy tiếng chuông ngân hỗn tạp, dường như hai ba chuông đồng lúc đánh lên. Quảng Kiệt đoán là trên núi có thêm người đến, hắn bèn quay người chạy lên trên núi.

Vừa đến một ngọn núi cao hơn, thấy ở đấy đá núi nhấp nhô gập ghềnh, không nơi nào bằng phẳng. Phía sau núi là một tòa miếu núp sau gốc tùng, mây trắng đang bay lãng đãng, vương vấn trên ngọn tùng,tiếng chuông chấn động núi là từ nơi này phát ra.

Theo tiếng chuông bước ra hai đạo sĩ đều cầm bảo kiếm. Niên kỷ cả hai không nhỏ, một người trên bốn mươi, một người râu đã bạc trắng.

Đạo sĩ râu trắng mau lẹ đến gần Quảng Kiệt, hoành kiếm hét lớn :

– Không được đi lên phía trước nữa.

Năm đạo sĩ dưới núi giờ cũng đã lên tới. Bọn họ thấy đạo sĩ đã cung kính khom người thi lễ, đạo sĩ râu dài chỉ Quảng Kiệt nói :

– Tên này thật đáng ghét. Hắn tự xưng là tôn tử của Long Môn Hiệp, qua lại kiếm tuyền lại không chịu bỏ kiếm, đệ từng dùng lời khuyên hơn thiệt, nhưng hắn lại rất cao ngạo buông lời sỉ nhục tôn thần. Bọn đệ tử đuổi theo, nhưng không kịp, hắn đã chạy lên đến đây.

Đạo nhân râu bạc vừa nghe, ngắm nghía Quảng Kiệt một lượt, rồi nói :

– Không ngờ Kỷ Quân Dực còn có tôn tử như vậy. Thế thì mi càng phải tôn thủ quy củ của bổn phái, mau ném kiếm vào suối, bần đạo sẽ dẫn mi vào đốt nén hương cho tổ sư, cầu người tha thứ tội cho mi.

Kỷ Quảng Kiệt vẫn cầm kiếm nói :

– Lão nói rõ một chút, sư phụ các người là ai?

Đạo nhân râu bạc biến sắc, phẫn nộ nói :

– Tổ sư Võ Đang phái là Phổ Vi hiển hóa Trương chân nhân. Lẽ nào tổ phụ mi không nói điều này sao?

Kỷ Quảng Kiệt lại ngạo mạn hỏi :

– Trương chân nhân còn sống không? Lão mau nói lão đó ra gặp ta.

Nhưng đạo sĩ có mặt cực Kỷ phẫn nộ, giận dữ vung kiếm nói :

– Tên này vô lễ vậy nhị vị chân nhân bất tất nói nhiều với hắn.

Đạo nhân râu bạc cười nhạt nói :

– Trước đây mười năm, Thiết Trượng Tăng từng đến đây náo loạn một lần, bọn ta đã dựa vào oai linh của tổ sư gia mà đánh đuổi hắn xuống núi, về sau chẳng còn ai dám đến đây gây sự. Không ngờ, hôm nay lại ra một tên tiểu bối mới ra đời như mi. Lão đạo thử hỏi nếu mi là tôn tử của Long Môn Hiệp, mi có nghe tổ phụ nhắc đến Thất Đại Kiếm Tiên của Võ Đang không?

Quảng Kiệt cười nhạt :

– Không nghe qua. Ta không tin trên đời có cái gì gọi là kiếm tiên, dù có ta cũng muốn họ tỷ võ.

Đạo nhân râu bạc nghe Quảng Kiệt nói vậy càng cười nhạt nói :

– Hay cho một tên tiểu bối không biết trời cao đất dày là gì. Hôm nay lão đạo sẽ thay Kỷ Quân Dực để quản thúc tôn tử ngang ngược của lão. Ta cũng muốn báo danh tánh cho tiểu tử ngươi rõ, ta chính là Sở Kiếm Hùng đệ nhị kiếm tiên trong Thất Đại Kiếm Tiên của bổn phái.

Quảng Kiệt thách thức :

– Ai dám quản thúc ta? Chúng ta thử tranh hùng xem sao?

Dứt lời, một kiếm bổ tới như sao băng, Sở Kiếm Hùng tức khắc đưa kiếm lên đỡ, rồi chuyển thế xoay nửa vòng cắt vào cổ tay Quảng Kiệt.

Quảng Kiệt vội thu kiếm về, nhảy ra sau định tránh kiếm đối phương. Không ngờ, Sở Kiếm Hùng lại khua kiếm một vòng đổi thức bổ kiếm xuống đầu Quảng Kiệt.

Quảng Kiệt cấp tốc hoành kiếm lên đỡ. “Kẻng” hai kiếm chạm nhau tóe lửa. Nội lực của Sở Kiếm Hùng dũng mãnh, Quảng Kiệt ngăn không nổi, thoái lui mấy bước rồi xoay kiếm định đâm đối phương, nhưng kiếm của Kiếm Hùng đã bay đến nhất chiêu tam thức liên miên bất tận, như sóng cuộn triều dâ?g, cứ lựa chỗ hiểm yếu trên người của Quảng Kiệt mà đâm vào.

Khó bề chống ngăn, Quảng Kiệt không dùng kiếm đỡ mà liên tiếp thoái lui, định quay người bỏ chạy.

Sở Kiếm Hùng đuổi theo, Quảng Kiệt xoay người, bảo kiếm ngang trán xỉa thẳng tới trán Kiếm Hùng.

Sở Kiếm Hùng vội rùn thấp mình xuống nhưng mặt vẫn ngẩng lên, hất mũi kiếm của Quảng Kiệt, rồi lão bước sang mấy bước nhanh như điện đâm vào hông phải của Quảng Kiệt.

Quảng Kiệt lại nhảy vọt lên một tảng đá cực lớn, thuận thế trên cao chống đỡ khiến Sở Kiếm Hùng đạo trưởng mấy lần tấn công cũng đều bị đánh bật trở lại. Lúc này, Quảng Kiệt càng được thể kiêu ngạo, kêu lớn lên :

– Đạo sĩ, chỉ cần lão lên được tảng đá này, ta sẽ ném kiếm bái lão làm sư phụ.

Sở Kiếm Hùng giận dữ mắng :

-Tiểu tử, ai thèm thâu mi làm đệ tử chứ?

Rồi bảo kiếm của lão như một con giao long trước sau tả hữu, bốn phương tám hướng uốn lượn cơ hồ muốn bay lên đánh bại Quảng Kiệt, nhưng bảo kiếm của Quảng Kiệt từ trên cao cứ đâm bổ, chém xuống, thân thể xoay chuyển, bảo kiếm như quấn lấy kiếm của Kiếm Hùng. Dẫu cho Kiếm Hùng đạo trưởng sử dụng chiêu thức gì, với sức mạnh thế nào cũng không thể vượt lên được tảng đá nơi Quảng Kiệt đang đứng.

Lão đạo trưởng tức giận chỉ về phía hắn thì tức thời các vị đạo sĩ bên cạnh nhất tề cầm kiếm xông lên, Kỷ Quảng Kiệt đành nhảy khỏi tảng đá, vung bảo kiếm mà ngăn trở đám đông.

Bảy thanh trường kiếm giao thủ với nhau. Thêm mấy chục hiệp Quảng Kiệt đã đánh ngã đạo sĩ râu đen dài. Lúc này, trong quan có tiếng chuông ngân, lại xuất hiện thêm bốn đạo sĩ tay cầm trường kiếm.

Chín người cùng huy động trường kiếm tiến gần đến Quảng Kiệt. Uy mãnh hơn cả là kiếm pháp của Sở Kiếm Hùng từng bước áp chế trường kiếm trên tay Quảng Kiệt.

Hắn biết khó bề chống cự lâu dài, nên đả thương thêm một người rồi quay lưng chạy tiếp.

Chạy đến bên một tảng đá treo đang cố tìm đường chạy xuống, nhưng bên dưới chỉ là khe sâu vạn trượng, mây bay mờ mịt, không biết dưới khe đó là nước hay đá núi, Quảng Kiệt không dám nhảy xuống nên quay lại, nghiến răng trợn mắt huy động kiếm pháp như mưa sa bảo hộ thân mình. Nhưng thấy đạo sĩ càng đông, kiếm pháp mình bắt đầu rối loạn sức lực suy kiệt dần, trước mắt tối đen, cảm thấy một chân mềm nhũn, thân hình không còn tự chủ.

Chợt “bùng” một tiếng, Quảng Kiệt cảm thấy thân thể đau nhức, mắt tối sầm, té nhào xuống đất, đầu óc hôn mê.

Không biết trải qua bao lâu, Quảng Kiệt mơ hồ cảm nhận như có một ai đó đang ngồi dậy, dùng nước mát đắp vào mặt. Quảng Kiệt cố gượng mở choàng mắt ra thấy người đó là một thiếu niên mặt áo bố xanh, thân thể cao lớn, mường tượng có chút quen quen.

Dần dần, Quảng Kiệt nhớ lại thì ra đây là người trước tửu điếm khích mình lên Võ Đang tỷ đấu, mà cũng chính là người trong tửu điếm đã tán dương mình làm thơ hay.

Quảng Kiệt thấy vết thương trên người không quá trầm trọng, chỉ trừ vai trái và trên mặt ra, những nơi khác không đau đớn lắm, nên hắn bật người dậy, nắm chặt cổ tay thiếu niên, mắng lớn :

-Tiểu tặc, mi lừa ta đến núi này…

Thiếu niên khẽ vẫy tay đã khoát khỏi sự kiềm chế của Quảng Kiệt. Chỉ nghe “ầm” một tiếng, Quảng Kiệt đã bị người này đá một cước bay rớt vào dòng suối.

Con suối này khá là sâu, vả chăng Quảng Kiệt lại không quen bơi lội, nên vùng vẫy trồi lên hụp xuống ngoi ngóp trong nước hồi lâu rồi chìm dần vào trong nước.

Thiếu niên đó chính là Tiểu Nhạn, nhìn thấy sự tình như thế, vội phóng xuống suối và như một con kình ngư không phí chút sức lực, đã đưa Quảng Kiệt vào bờ, giúp hắn tống nước ra ngoài.

Quảng Kiệt lại dần dần tỉnh lại, nhìn thấy đối phương và mình ướt như chuột lột, hắn không còn sức để tức giận, nằm dài trên đá thở hổn hển, hỏi Tiểu Nhạn :

– Mi có gì nói thực đi?

Tiểu Nhạn mỉm cười đáp :

– Ta là Cao Cửu Hoa.

Quảng Kiệt cười nhạt nói :

– Vô danh tiểu bối. ta nghĩ mi chính là Giang Tiểu Nhạn đó.

Tiểu Nhạn cười đáp :

– Nếu ta là Giang Tiểu Nhạn, sao còn có thể cứu mi? Mi có muốn tự treo mình trên cây nữa không?

Quảng Kiệt nhìn theo tay chỉ của Tiểu Nhạn, thấy trên vách đá có nhô ra một tảng đá cao vạn trượng, quanh đó nhánh cây cùng dây mây chằng chịt, mây trắng bay lãng đãng, suối từ trên chảy vòng quanh đó.

Quảng Kiệt thầm nghĩ :

“Đá treo cao cheo leo chót vót như vậy từ đó ta rơi xuống ngọn cây, tên này lại có thể từ trên cây đem ta xuống, thật chẳng chút dễ dàng. Hơn nữa, thân thủ hắn linh hoạt, thanh âm vang dội, thủy tính thông thạo, ắt không phải hảo hán vô danh”.

Bèn cười nói :

– Kỷ Quảng Kiệt ta chưa từng thấy qua người nào như mi Quả thật mi là hạng kê mình cẩu tứ (gà gáy, chó kêu)!

Giang Tiểu Nhạn cười nói :

– Cái gì gọi là kê minh cẩu tứ? Mi đừng dùng văn chương nói với ta, ta không biết chữ đâu.

Quảng Kiệt trố mắt ngạc nhiên hỏi :

– Vậy người đề thơ trên tường không phải là mi? Hôm qua… không phải do mi làm?

Tiểu Nhạn cười nói :

– Việc gì ngươi cũng đổ lên người ta. Ta cho mi biết từ Chính Dương huyện ta đã theo mi đến đây. Ý của ta là muốn cùng mi tranh tài cao thấp, xem người tróc nã Giang Tiểu Nhạn bản lãnh được bao nhiêu. Ta cũng biết trên Võ Đang không được mang kiếm mới khích nộ cho mi lên đây giao đấu cùng với đạo nhân, nhưng giờ đây chứng kiến, thì ra mi không xong rồi.

Quảng Kiệt mặt đỏ bừng bừng, đứng bật dậy nói :

– Họ Cao kia câm mồm! Vừa rồi trên núi ta không may chỉ vì ta đơn thân thế cô. Mình ta đả thương mấy người. Bọn họ đông người đảo vây lấy một mình Quảng Kiệt này, xem ra vậy họ đã thua.

Tiểu Nhạn cười cười :

– Tóm lại võ công của mi không cao. Nếu là bổn gia, ta đã không sử dụng binh khí, dù mấy mươi thanh kiếm vây chặt cũng không đáng uý kỵ. Ta bảo đảm chế phục hết bọn họ.

Quảng Kiệt cười nhạt :

– Mi đừng quá cuồng ngôn. Mi có dám lên núi thi đấu cùng mấy đạo nhân đó không?

Tiểu Nhạn nói :

– Họ nào có hiềm khích gì với ta. Hơn nữa, Võ Đang sơn là thánh địa nội gia của chúng ta, ta không dám trước mặt Trương Tam Phong tổ sư mà vô lễ.

Quảng Kiệt cười ha hả :

– Những lời mi nói thực khiến người cười chết được.

Tiểu Nhạn có nét giận nói :

– Kẻ đáng cười chính là mi. Dựa vào tài nghệ non kém của mi cũng dám đi khắp nơi tróc nã Giang Tiểu Nhạn. Chẳng qua Giang Tiểu Nhạn nể trọng Long Môn Hiệp tổ phụ của mi, không muốn để mi mất hết danh tiếng trên chốn giang hồ. Nếu không chỉ cần ba quyền hai kiếm, họ Kỷ mi đã trọng thương mà tử vong.

Quảng Kiệt vừa nghe đã nhảy dựng dậy, hai tay vung quyền muốn đánh. Tiểu Nhạn cũng vẫn cười ngạo mạn. Quảng Kiệt chợt nhìn thấy mặt nước suối lấp lánh như gương phản chiếu gương mặt mình thấy đầy vết máu có lẽ do té trên nhánh cây bị cào xước. Quảng Kiệt sờ lên mặt cảm thấy đau nhói, hai tay cũng dính đầy máu, thế nên hắn chỉ cười nhạt rồi không nói nữa. Quảng Kiệt đến bên dòng suối, cởi áo ra, lấy khăn tay thấm nước mà rửa sạch sẽ, sau đó giả cười tươi nói với Tiểu Nhạn :

– Bằng hữu hôm nay chúng ta bất tất tranh cãi. Lần trước ở Chính Dương huyện bằng hữu đã trộm tiền giúp ta bố thí, vừa rồi lại ra tay cứu ta. Lẽ ra chúng ta nên kết giao bằng hữu. Còn võ nghệ cao thấp xin để về sau hãy bàn đến. Giờ huynh đài hãy chờ ở đây, ta lên núi đem ngựa xuống. Sau đó hai ta cùng về huyện thành, đến khách điếm uống vài hớp rượu, huynh đài thấy thế nào?

Tiểu Nhạn gật đầu đồng ý :

– Được! Mi cứ đi đi. Ta xuống núi chờ, sẵn nhặt lấy bảo kiếm giùm mi.

Dứt lời, Tiểu Nhạn bám vách núi leo lên lấy thanh bảo kiếm Quảng Kiệt đánh rơi, cao giọng nói :

– Cẩn thận. Tiếp lấy!

Nói rồi, ném kiếm xuống dưới. Quảng Kiệt xoè tay chụp lấy.

Tiểu Nhạn một tay bám tòn teng trên cây, mỉm cười nói :

– Ta xuống núi chờ mi!

Dứt lời, như một con vượn bò theo vách đá thẳng đứng mà bò lên trên.

Quảng Kiệt ngước mắt nhìn lên thầm thán phục :

“Thân thủ người này quá linh hoạt hơn hẳn ta rất nhiều. Nếu hắn quả thực là Tiểu Nhạn thì đúng là một đối thủ đáng sợ!”.

Chờ cho bóng Tiểu Nhạn khuất hẳn, Quảng Kiệt mới giắt bảo kiếm lên lưng, bám vào vách núi, rễ cây mà leo lên, nhưng leo không quá hai trượng nhìn quanh đã không thấy nhánh cây nào có thể bám víu được, hắn vội thoái lui xuống, lòng nóng nảy thầm nghĩ :

“Nếu ta không lên được tất khiến họ Cao kia chê cười, lại có thể chết vì đói”.

Thế là hắn nhảy vào đám loạn thạch ven suối mà bò từ từ lên. Vất vả lắm mới lên được, nghe tiếng suối chảy róc rách từ xa vang lại thì ra Giải Kiếm tuyền đang ở cạnh đó.

Quảng Kiệt tuốt kiếm ra, muốn chạy đến đám đạo sĩ vây đánh mình, nhưng giờ hắn mệt mỏi, thêm vết thương đang hành hạ đau nhức, hắn trợn mắt nhìn lên núi, lầm bầm :

“Sở Kiếm Hùng và bọn lỗ mũi trâu, hôm nay ta không thèm giao tranh cứ chờ hai ngày sau ta lên núi thư hùng với bọn ngươi”.

Rồi hắn mới phẫn hận tra kiếm vào vỏ, dắt ngựa đi. Sắp đến chân núi hắn mới lên ngựa ra roi phi xuống. Dưới chân núi đang có bầy dê ăn cỏ, ước khoảng hai trăm con, xa xa nhìn như một thảm tuyết. Tiểu Nhạn cùng hắc mã đang đứng giữa bầy dê đó cùng hai tiểu hài chuyện trò. Quảng Kiệt vẫy tay gọi lớn :

– Huynh đệ, chúng ta đi mau!

Tiểu Nhạn dẫn ngựa ra đến đại lộ mới lên ngựa. Quảng Kiệt chú ý bảo kiếm trên yên của Tiểu Nhạn và hài cỏ dưới chân, hắn mỉm cười, nói :

– Huynh đệ đi mau đến khách điếm ta trọ, chúng ta đàm đạo. Ở đó còn có hai bằng hữu của ta nữa.

Tiểu Nhạn nói :

– Được!

Thế là hai con tuấn mã quay đầu trở về hướng nam vào nam môn thành.

Lúc này, Chí Diệu và Chí Viễn đang ở trong viện chờ đợi. Chí Viễn chau mày, nhăn mặt ưu tư không nói. Còn Chí Diệu đang cùng với chưởng quỹ nói chuyện phiếm.

Chợt nhìn thấy hắc bạch hai tuấn mã chạy đến tiến vào điếm.

Cả hai người đều ướt sũng, trông thảm hại nhất là Quảng Kiệt. Khi mới bước chân ra đi thì ăn vận tề chỉnh bảnh bao. Còn giờ trên thân cũng không có một chiếc áo để mặc. Trên khắp thân thể của hắn nơi nào cũng mang thương tích.

Chí Diệu trợn tròn một mắt hỏi :

– Tại sao lại ra nông nỗi như vậy?

Còn Chí Viễn ngẩn ngơ nhìn Tiểu Nhạn.

Tiểu Nhạn thản nhiên giao ngựa cho điếm nhị. Quảng Kiệt kéo chàng vào giới thiệu với Chí Viễn :

– Đây là cao đồ Lưu Chí Viễn của Côn Lôn phái, ngoại hiệu Thái Tuế Đao. Còn đây là bằng hữu Cao Cửu Hoa mà tại hạ mới kết giao.

Tiểu Nhạn mỉm cười ôm quyền nói :

– Không dám!

Quảng Kiệt thấy vậy thất vọng, thầm nghĩ :

“Vậy là ta nghĩ lầm họ Cao rồi. Thì ra hắn không phải là Giang Tiểu Nhạn”.

Hắn lại dẫn kiến Tiểu Nhạn với Tương Chí Diệu.

Chí Diệu đưa con mắt còn lại nhìn Tiểu Nhạn, thấy chàng lộ ra khí phách ngang tàng, một thiếu niên anh tài, nên liên tiếp vòng tay nói :

– Xin mời vào sàn, ngoài này nóng lắm.

Rồi hắn nhắc một chiếc ghế đem ra, Quảng Kiệt nói :

– Tại hạ muốn vào phòng thay đổi y phục.

Chí Viễn muốn theo Quảng Kiệt vào trong, Tiểu Nhạn vội kéo Chí Viễn lại nói :

– Lưu huynh, mời ngồi. Chúng ta đàm đạo.

Ngón tay chàng dùng sức nên Chí Viễn cảm thấy xương cốt đau đớn, nhưng không dám kêu lên, miệng nói :

– Được! Được!

Cước bộ có vẻ xiêu vẹo, nên Tiểu Nhạn giả như kéo lại, ấn ngồi lên ghế. Gã cảm thấy đau đớn đến mồ hôi trán nhỏ giọt.

Tiểu Nhạn vui vẻ hỏi :

– Trời nóng quá phải không?

Chí Viễn vờ gật đầu nói :

– Đúng vậy. Trời quá nóng!

Tiểu Nhạn cởi áo ra để lộ một thân thể rắn chắc, cường tráng. Chí Diệu thăm hỏi :

– Cao huynh là người ở phương nào? Trước nay làm nghề gì?

Tiểu Nhạn đáp :

– Tại hạ từ Giang Nam Tri Châu đến đây, không có nghề gì chính thức. Có lần thay bạn bè đi bảo tiêu vài chuyến, có người dạy vài bài quyền, có lúc túng quẫn quá đến nơi nào thì kiếm việc làm ở đó, lăn lộn nam bắc mười mấy năm cũng không đến nỗi thiếu cơm rượu, ngựa thiếu cỏ ăn. Hiện giờ, tại hạ lên Võ Đang, không ngờ thấy Quảng Kiệt huynh bị mấy đạo sĩ đánh bức đến té từ trên núi xuống. Tại hạ cứu Kỷ huynh rồi cùng kết giao bằng hữu.

Quảng Kiệt đã thay một bộ áo vàng từ trong phòng bước ra, nghe Tiểu Nhạn nói vậy, hắn đỏ mặt đồng thời giận dữ nói :

– Cao huynh không cần gấp nói việc này. Ta mời huynh ở lại đây hai ngày để xem ta lên núi Võ Đang chế phục Sở Kiếm Hùng lẫn bọn đạo sĩ đó và cả bọn Thất Tiên cùng quỳ dưới chân ta.

Tiểu Nhạn nói :

– Sợ không dễ như vậy đâu, Võ Đang sơn là tổ sư của nội gia, bọn họ không phải đã học được mật truyền võ học của Trương Tam Phong chân nhân sao? Thất Đại Kiếm Tiên ta tuy không biết danh tánh của họ, nhưng quyết không phải là bọn tự phụ thành danh trên giang hồ, tự đề cao thổi phồng mình.

Quảng Kiệt biến sắc, hậm hực nói :

– Cao huynh, có thể hiện giờ cùng ta lên Võ Đang một chuyến nữa không? Ta sẽ giao đấu cùng họ.

Dứt lời, hắn chạy lấy kiếm định lên núi nữa, nhưng Chí Viễn đã ngăn lại nói :

– Có việc gì hãy thương lượng đã. Đạo sĩ trên núi rất nhiều, bọn ta người ít thế cô, bất luận anh hùng thế nào cũng mãnh hổ nan địch quần hổ!

Quảng Kiệt hậm hực ngồi xuống, Tiểu Nhạn rót một ly trà vừa uống vừa cười. Quảng Kiệt giận dữ hồi lâu mới nói :

– Cao huynh hiện giờ định đi về đâu?

Tiểu Nhạn đáp :

– Ta muốn đến Trường An.

Chí Viễn ở bên cạnh giật nảy người, Quảng Kiệt ở bên cạnh hỏi :

– Đến Trường An làm gì?

Tiểu Nhạn nói :

– Hiện giờ nơi đó có mấy bằng hữu mười năm chưa gặp. Họ thiếu ta một món nợ, ta định đến hỏi lấy lại.

Chí Viễn ở bên cạnh sợ hãi biến sắc, mồ hôi tuôn ra dầm dề. Chí Diệu cảm thấy kinh ngạc hỏi :

– Không hiểu bằng hữu của Cao huynh ở Trường An làm gì?

Tiểu Nhạn mỉm cười nhìn Chí Viễn nói :

– Họ đều là người buôn bán nhỏ, nhưng món nợ họ thiếu ta lại quá lớn, khiến ta không đòi không được.

Chí Viễn vừa đổ mồ hôi vừa phát run. Quảng Kiệt cúi đầu suy tư những lời Tiểu Nhạn vừa nói. Một hồi lâu, Quảng Kiệt nói :

– Cao huynh muốn đi Trường An, vì sao chúng ta không đồng hành? Bằng hữu cùng gia quyến cũng đều cư ngụ ở đó. Cao huynh có biết Bảo Côn Lôn Bào Chấn Phi lão sư chăng? Lão gia đang ở Trường An còn có Tiểu Côn Lôn Bảo Chi Vân, Thôi Sơn Hổ Long Chí Khởi và một số hào kiệt Côn Lôn phái. Nếu huynh đi, ta có thể dẫn kiến với họ. Bằng muốn tỷ võ cũng được, trừ Bào lão sư ra, ta nghĩ huynh có thể cầm cự bằng họ.

Tiểu Nhạn gật đầu mỉm cười, chậm rãi nói :

– Nếu muốn tỷ võ, tất phải tìm Bào Côn Lôn. Nhưng nghĩ Bào lão tuổi già, nếu thắng cũng chẳng anh hùng. Có thể khi giao thủ ta dùng tay không, nhường cho lão sử dụng Côn Lôn đao. Trong ba hiệp nếu ta không đánh bại lão cướp lấy Côn Lôn đao, ta coi như không phải là hào kiệt đương thời.

Quảng Kiệt cười nhạt nói :

– Cao huynh quá lời rồi. Đừng nói Bào lão sư ngay cả A Loan tiểu thư, tôn nữ của Bào lão sư sợ rằng huynh cũng không địch nổi nàng.

Tiểu Nhạn vừa nghe nhắc đến A Loan, lòng chàng đau nhói pha lẫn sự bi hận, chàng cao giọng hỏi :

– A Loan cô nương cũng ở Trường An à?

Quảng Kiệt gật đầu :

– Đúng vậy!

Tiểu Nhạn vội hỏi :

– Võ nghệ của Bào cô nương so với Kỷ huynh thế nào?

Quảng Kiệt nói :

– Chưa có giao thủ qua, nhưng theo ta nghĩ nàng kém hơn một chút. Nàng tương đương với đệ tử của Thục Trung Long. Còn ta thì dùng kiếm đả thương Lý Phụng Kiệt.

Tiểu Nhạn trầm mặc một hồi. Vết thương mang trong lòng rồi cũng hiện lên mặt, chau mày hồi lâu không nhịn được hỏi :

– Không biết cô nương đó đã đính hôn với ai chưa?

Quảng Kiệt đắc ý cười nói :

– Dĩ nhiên là có rồi!

Tiểu Nhạn nghe nói giật thót người, trợn mắt hỏi gấp :

– Đính ước với ai? Đã có hôn lễ chưa?

Quảng Kiệt chợt vỗ bàn rít lên :

– Huynh hỏi nhiều quá. Nàng chính là thê tử của Kỷ Quảng Kiệt này. Mùa thu đến, bọn ta sẽ tổ chức hôn sự.

Tiểu Nhạn giận quá, đột nhiên đứng dậy dùng ngón tay điểm vào sườn dưới của Quảng Kiệt. Hắn “hự” một tiếng, té nhào xuống đất.

Chí Viễn và Chí Diệu kinh sợ đứng bật dậy, khách nhân và điếm gia trong viện cùng kinh ngạc bèn hỏi :

– Đã xảy ra chuyện gì?

Tiểu Nhạn giận biến sắc, nắm chặt tay, hận mình không thể một quyền đấm chết Quảng Kiệt, nhưng chàng nghĩ :

“Vì tranh đoạt một nữ nhân, ta giết hắn thực không phải anh hùng. Hơn nữa, sư phụ từng dặn dò không được dùng thuật điểm huyệt. Hôm nay chỉ vì một chút đố kỵ hờn ghen mà vi phạm lời dạy của ân sư, thế không phải đạo”.

Đồng thời, lòng chàng cuộn tràn một nỗi bi thống đau thương. Chàng hít mạnh một hơi chân khí, cố nén tâm tình rồi hỏi Chí Viễn :

– Bào Côn Lôn, Long Chí Khởi, Bào A Loan có phải ở Trường An không?

Chí Viễn gật đầu nói :

– Đúng vậy!

Tiểu Nhạn nói :

– Được! Ta đi tìm bọn họ.

Rồi chàng đá Quảng Kiệt một cước, hậm hực quay người mà đi. Chàng vội vã về khách điếm, trả tiền phòng thu dọn hành lý, dẫn ngựa ra cửa điếm, lên ngựa mà đi. Chàng muốn gấp rút thúc ngựa phi nhanh đến Trường An, nhưng không hiểu sao lòng lại thấy qua đau đớn, nên để hắc mã thủng thẳng mà đi.

Đi xa chưa được ba, bốn dặm, phía sau đã thấy Quảng Kiệt tay cầm kiếm cưỡi bạch mã rượt theo, cao giọng hét :

– Giang Tiểu Nhạn, mi thực là con rùa rúc đầu, không dám xưng danh tánh. Đồ hèn nhát, mi muốn chạy sao? Dùng thuật điểm huyệt thắng người không phải là việc làm của kẻ anh hùng đâu. Mi không dám tỷ kiếm cùng ta sao?

Tiểu Nhạn quay ngựa lại, hoành kiếm cười nhạt nói :

– Ta cũng là truyền nhân của Võ Đang phái. Ta và mi không cần phải quyết sanh tử. Ta giết mi thật quá dễ dàng, nhưng ta không muốn ra tay, vì hai ta không thù oán. Ta chỉ muốn tìm Bào Chấn Phi và hai huynh đệ họ Long thôi.

Kỷ Quảng Kiệt hét lớn :

– Có Kỷ Quảng Kiệt ta, mi muốn phương hại đến người Côn Lôn phái thực không dễ. Xem kiếm ta đây!

Bảo kiếm của Quảng Kiệt như mãnh hổ xuất sơn bổ đến Tiểu Nhạn.

Tiểu Nhạn hoành kiếm đỡ lên. Chỉ nghe tiếng binh khí hai bên chạm nhau đinh tai nhức óc, bảo kiếm của Quảng Kiệt đã bị đánh bật ra.

Quảng Kiệt thúc ngựa lướt qua Tiểu Nhạn, rồi hoành ngang chận đường, dùng kiếm dũng mãnh đâm vào Tiểu Nhạn.

Tiểu Nhạn mọp người tránh thế đâm, đồng thời hất kiếm đâm vào cổ tay Quảng Kiệt. Khiến Quảng Kiệt vội rút tay về, Tiểu Nhạn thừa thế bổ vào đầu Quảng Kiệt.

Quảng Kiệt vội phi thân xuống ngựa hoành kiếm lên đỡ thế kiếm như mãnh hổ vồ mồi của Tiểu Nhạn, cùng lúc thoái lui mấy bước.

Tiểu Nhạn cũng nhảy xuống lưng ngựa, kiếm như bóng với hình theo sát Quảng Kiệt truy kích, làm cho hắn không còn tự chủ, lại phải nhảy lui ra sau mấy bước để tránh né. Chờ đến lúc Tiểu Nhạn đến gần, hắn xoay người, bảo kiếm đâm ra. Tiểu Nhạn bình thản để hai kiếm chạm nhau. Quảng Kiệt mượn thế vọt lên cao một kiếm ba thế nhanh nhẹn bổ liên tiếp xuống, nhưng đều bị Tiểu Nhạn tránh khỏi.

Quảng Kiệt một mực tấn công, còn Tiểu Nhạn vẫn cứ tránh né.

Thoáng chốc, hai bên đã giao đấu mười mấy hiệp.

Tiểu Nhạn một kiếm đánh bật Quảng Kiệt ra, rồi tung chân đá vào bụng Quảng Kiệt. “Hự” một tiếng, Quảng Kiệt đã lãnh trọn một cước té ngồi xuống đất, nhưng hắn cố vận toàn lực đứng lên, trợn mắt, hai tay cầm chặt đốc kiếm lao bổ vào Tiểu Nhạn.

Chỉ nghe mấy tiếng “kẻng, kẻng, kẻng…”. chói tai, Quảng Kiệt cảm thấy một nội lực hùng hậu tuôn tràn sang khiến cánh tay hắn tê chồn, bị kiếm Tiểu Nhạn đánh bật ra.

Tiểu Nhạn cười nhạt nói :

– Kiếm pháp Long Môn phái chỉ có bao nhiêu thôi sao? Vì ta không muốn đả thương mi, nếu không giờ này mi đừng mong toàn mạng.

Dứt lời, tay cầm kiếm vọt lên chém vào đầu Quảng Kiệt. Hắn vội né người tránh.

Tiểu Nhạn rung tay kiếm vẽ nên những tinh quang lấp loé như ngàn đoá hoa mai đâm thẳng vào tim Quảng Kiệt, làm cho hắn vô phương chống đỡ né tránh. Mũi kiếm của Tiểu Nhạn lúc này đã chạm đến ngực Quảng Kiệt, nhưng chàng thu hồi kiếm lại, rồi mỉm cười nói :

– Trở về đi, chui vào mộ tổ phụ mi mà luyện thêm mấy mươi năm nữa.

Nói xong, chàng phi thân lên ngựa cười lạnh rồi ra roi cho ngựa chạy về hướng bắc.

Quảng Kiệt cầm kiếm đứng sững sờ hồi lâu, rồi cúi nhìn xuống ngựa thấy có chút máu tươi và chút đau. Áo vàng của hắn đã bị khoét một lỗ nhỏ không quá ba tấc như đoá hoa hồng cài trước ngực. Quảng Kiệt thở dài hồi lâu, rồi phẫn hận giậm chân nhảy lên thúc ngựa trở về.

Vừa gặp Chí Viễn hắn “hừ” lạnh một tiếng, tát thật mạnh vào mặt khiến Chí Viễn cơ hồ muốn té. Quyền thứ hai của Quảng Kiệt vừa đến, nhưng Chí Viễn đã tránh khỏi, hắn muốn đánh tiếp. Chí Diệu vội kéo tay hắn lại. Quảng Kiệt muốn dùng chân mà đạp, lại luôn miệng mắng :

– Mi biết Giang Tiểu Nhạn nên ta mới mang mi theo, nào ngờ gặp hắn mi lại co đầu rút cổ giả vờ cho hắn. Mi có dụng tâm gì? Muốn hãm hại Quảng Kiệt ta sao?

Chí Viễn bị Quảng Kiệt đánh, hắn cũng phẫn nộ lắm, nhưng vì không có cách tranh biện nên đành đỏ mặt bỏ đi ra ngoài.

Chí Diệu khuyên Quảng Kiệt ngồi xuống ghế, nói :

– Đây cũng là không thể trách Lưu sư đệ. Thiếu hiệp nghĩ xem Giang Tiểu Nhạn là nhi tử của Chí Thăng. Trước kia hắn chỉ là một tiểu hài tử, Chí Viễn thấy hắn cũng không lưu tâm, giờ đây hắn đã trở thành một thanh niên làm sao Chí Viễn có thể nhận ra.

Quảng Kiệt cười lạnh nói :

– Mi không cần tranh biện cho hắn. Ta đã sớm rõ bụng dạ bọn mi sợ Tiểu Nhạn như cọp, thấy mặt hắn cũng không dám nhận còn nói gì đến tranh đấu. Vì sư phụ bọn mi đã sớm sợ hắn rồi, khiến cả một bọn người Côn Lôn nghe tên Giang Tiểu Nhạn đã muốn dứt hơi tắt thở. Ta thực cảm thấy quá tức cười. Nếu không phải vì Bào cô nương, ta đã không giúp Côn Lôn phái, bọn mi thật quá hèn nhát, bất tài.

Chí Diệu bị nói đến sững sờ hồi lâu mới chớp một con mắt, rồi nói :

– Kỷ thiếu hiệp, lời này tốt nhất đừng để người khác nghe, vì họ cũng sẽ cười thiếu hiệp đó. Không sai Bào sư phụ có sợ Giang Tiểu Nhạn bởi bản lãnh càng cao, niên kỷ càng già thì gan càng bé đi. Lưu Chí Viễn cũng giống như vậy, hắn biết Giang Tiểu Nhạn võ nghệ cao cường, cả ba chúng ta đều không đáng là đối thủ của Tiểu Nhạn, nên hắn không dám nhận đó.

Kỷ Quảng Kiệt vỗ bàn, nhảy dựng lên phẫn nộ nói :

– Câm miệng! Côn Lôn phái bọn mi sợ Giang Tiểu Nhạn chứ họ Kỷ ta không sợ đâu. Vừa rồi, ta đuổi hắn nhưng không kịp, nếu không thanh bảo kiếm này đã cắt đầu hắn cho các ngươi xem!

Nhưng nói đến đây trước ngực hắn chợt đau nhói, khiến nộ khí dần dần tiêu tan, từ từ hắn hòa hoãn lại, chau mày, thở dài lặng thinh.

Chí Diệu lại hỏi :

– Kỷ thiếu hiệp, chúng ta hiện giờ phải làm sao? Hay là chạy theo tróc nã Giang Tiểu Nhạn nữa?

Kỷ Quảng Kiệt nói :

– Gặp mặt Chí Viễn không dám nhận hắn để hắn đào tẩu, chúng ta biết tìm bắt hắn ở đâu đây? Hiện giờ có lẽ hắn đang đi về hướng bắc mà vào Đồng Quan về Trường An rồi. Giờ chỉ còn cách chúng ta mau đến Đại Tán quan gặp lão sư phụ. Nếu lão sư phụ sợ hắn, chúng ta bảo lão nhân gia tránh nạn nơi xa, sau đó chúng ta cùng đến Trường An truy sát Tiểu Nhạn. Này cần phải khẩn trương lên nếu không Tiểu Nhạn sẽ đến Trường An trước ta.

Chí Diệu gật đầu tán đồng :

– Được! Thu thập hành lý lên đường ngay.

Dứt lời, Chí Diệu đi vào trong phòng thấy Chí Viễn đang ngồi trên giường tức giận. Chí Diệu nhỏ giọng nói :

– Quảng Kiệt bảo chúng ta mau về Đại Tán quan bẩm cùng sư phụ rồi lên đường đến Trường An đại chiến Tiểu Nhạn. Giờ phải đi ngay.

Chí Viễn cười lạnh nói :

– Đại chiến Giang Tiểu Nhạn mà làm gì. Huynh không thấy vết máu trước ngực Quảng Kiệt sao? Nhất định đó là do Tiểu Nhạn dùng kiếm đả thương. Chẳng qua Tiểu Nhạn không muốn lấy mạng hắn, nếu không đầu hắn đã chẳng còn rồi.

Chí Diệu biến sắc sợ đến run người. Chí Viễn thở dài nói :

– Chỉ trách sư phụ bình sinh làm việc quá ác, hại người quá nhiều đến độ kết nên mối thù này. Tương lai thật khó nói, không chỉ Côn Lôn phái chúng ta toàn bộ bị diệt mà sư phụ niên kỷ đã cao như vậy cũng gặp bất hạnh.

Chí Viễn lo lắng âu sầu muốn rơi nước mắt. Chí Diệu hối thúc nói :

– Mau thu thập hành lý trở về Đại Tán quan. Lời Quảng Kiệt vừa nói cũng có lý là mời sư phụ lánh đi. Ta nghi chỗ Chí Trung cũng không ổn, tốt nhất nói lão nhân gia tránh về Xuyên Bắc.

Chí Viễn vội nói :

– Nhưng Xuyên Bắc còn có Lang Trung Hiệp.

Hai người vừa nói vừa gom góp hành lý. Trên đường đi, Quảng Kiệt lúc nào cũng nóng nảy, hắn cứ mắng Chí Viễn đi chậm, có mấy lần tuốt kiếm thúc Chí Viễn đi nhanh, nhưng Chí Viễn sợ Tiểu Nhạn đi chưa xa, nếu gặp phải trên đường tất sẽ xảy ra ác chiến. Đương nhiên, Tiểu Nhạn không đánh hắn mà giao thủ với Quảng Kiệt nhưng nếu Quảng Kiệt không địch nổi Tiểu Nhạn mình đâu thể buông tay bàng quan, nên mặc cho Quảng Kiệt thúc hối thế nào Chí Viễn cũng không dám đi nhanh.

Không ngờ, vừa đi khoảng bốn mươi dặm đường đã nghe tiếng vó ngựa dồn dập phía sau. Quảng Kiệt quay lại nhìn, thì thấy bốn người trên ngựa trong đó có hai quan nhân và hai người mặc áo ngắn đuổi theo.

Đêm đó, Quảng Kiệt ở Chính Dương huyện nửa đêm trộm ngân lượng ở Cổ Bách Vạn, việc còn chưa thành đã bị phát giác phải huyết đấu với bọn hộ viện. Lúc đó, đuốc sáng như ban ngày, nên Quảng Kiệt biết rõ diện mạo cùng danh tánh hai người chính là Dương Công Cừu và Lưu Anh.

Giờ hắn thấy hai người cùng quan nhân chạy đến, vội dừng ngựa tuốt gươm nói với Tưởng, Lưu hai người :

– Cẩn thận! Hai người này là hộ viện của Cổ gia trang, võ nghệ chúng không tầm thường đâu.

Lúc này, bọn Dương Công Cừu đã phi ngựa đến gần, tay lăm lăm thanh đao. Công Cừu cầm đao chỉ vào Quảng Kiệt.

– Tên họ Kỷ kia, mau ném kiếm xuống ngựa chịu trói cùng bọn ta lên quan môn.

Quảng Kiệt cười ha hả nói :

– Chịu trói? Lên quan môn?

Chưa dứt lời, hắn đã vung kiếm bổ vào Dương Công Cừu. Công Cừu nhanh lẹ đưa đao lên đỡ. Lưu Anh cũng xốc đao đến đánh. Ba người trên lưng ngựa hỗn chiến mấy hiệp rồi nhảy xuống đất tiếp tục giao tranh.

Chí Viễn, Chí Diệu vừa thấy quan nhân đến theo bọn họ không dám xuất thủ tương trợ.

Quảng Kiệt thi triển kiếm pháp đánh với Dương Công Cừu và Lưu Anh hơn mười mấy hiệp. Thình lình hắn chuyển thế bất ngờ đâm ngã Lưu Anh, ngoảnh lại nhìn thấy Chí Viễn, Chí Diệu đều đứng dạt sang bên tránh ở xa xa, hắn tức giận đùng đùng không muốn đánh với Công Cừu nữa mà phóng lên lưng ngựa mà chạy.

Chạy hơn một dặm, hắn quay đầu thấy Dương Công Cừu và hai quan nhân đang vây chặt Chí Viễn, Chí Diệu. Một lát sau, đã thấy họ đánh ngã Chí Diệu, Chí Viễn trói lại rồi mang đi.

Quảng Kiệt thấy Lưu, Tưởng hai người thay mình bị giải đến quan, cười lạnh lòng cảm thấy cao hứng. Hắn không quay lại gần cứu hai người mà thúc ngựa một mạch chạy đến Kinh Tử quan. Ven lộ, hắn hỏi thăm đường về phía tây. Qua Kinh Tử quan, Thương Sơn Thái Lãnh, ngày đi đêm nghỉ, bụi bám đầy người, không đến ba ngày đã đến. Đến Đại Tán quan hắn lúc này thật quá mỏi mệt. Vừa vào đến cửa phòng của Côn Lôn tiêu điếm đã buông roi ngựa, nằm dài trên giường mà nghỉ.

Chí Trung ở đó vừa thấy Quảng Kiệt đột nhiên trở về cảm thấy rất là Kỷ lạ, chờ Quảng Kiệt nghỉ một chút, hắn mới bước lên hỏi :

– Kỷ cô gia, từ đâu về đây? Tìm được Giang Tiểu Nhạn không? Chí Viễn, Chí Diệu đâu rồi?

Quảng Kiệt ngồi bật dậy, không đáp chỉ hỏi :

– Lão gia và cô nương ở đâu?

Chí Trung đáp :

– Ở hậu viện.

Quảng Kiệt vội vã chạy ra khỏi phòng đi thẳng đến tiểu môn ở hậu viện, thì nhìn thấy A Loan thân mặc áo lụa màu hồng nhạt đang múa một bài đao pháp như phục hổ trầm long.

Quảng Kiệt giương mày cười nhạt nói :

– Bào cô nương, ở Võ Đang sơn ta đã tìm gặp Tiểu Nhạn. Ta và hắn đã đánh nhau hơn bốn trăm hiệp. Nếu không phải vì hắn hoảng sợ nhảy xuống suối lặn mất thì ta đã có thể mang đầu hắn về cho cô nương xem rồi.

A Loan thu đao mặt biến sắc còn Kỷ Quảng Kiệt thì cười ha hả, nhìn hôn thê của hắn.

Lúc này Bào lão sư từ trong viện bước ra thấy đôi phu thê này có vẻ như vậy, lòng lão có chút không vui, nhưng nhìn gương mặt phong trần, quần áo lem bùn đất của Quảng Kiệt, lão dừng lại hỏi :

– Tiểu nhi đã thấy Giang Tiểu Nhạn rồi sao?

Nói ra ba tiếng Giang Tiểu Nhạn, gương mặt già nua nhăn nheo của lão trắng bệch. Quảng Kiệt đáp lời :

– Tôn tử vừa ra khỏi Hàm Cốc quan đã dán cáo thị tróc nã Giang Tiểu Nhạn khắp nơi, nhưng hắn một mực tránh né. Một ngày ở Tương Bắc cốc gặp nhau, hắn tự xưng họ Cao rất là hòa nhã tìm cách gần gũi cháu không biết mang tâm địa gì. Đáng hận nhất là Chí Viễn sư thúc biết lại không nói ra, cơ hồ khiến cháu phải mắc mẹo Tiểu Nhạn. May mà cháu nhìn ra sơ hở, nên bức hắn đến Võ Đang sơn. Tiểu Nhạn mời nhiều đạo sĩ giúp sức đánh cháu, hắn cùng cháu giao thủ hơn ba trăm hiệp.

Sau đó bức Tiểu Nhạn đến gần một quả núi treo, cháu chém hắn một kiếm, hắn liền nhảy xuống khe suối thuận theo dòng nước mà đào tẩu. Trước ngực cháu cũng thọ chút thương. Khi xuống núi truy vấn, Chí Viễn sư thúc còn muốn tranh cãi với cháu nữa. Rời khỏi Cốc Thành huyện không được năm dặm, cả Chí Viễn và Chí Diệu sư thúc bỏ cháu lại mà đi nơi khác. Cháu vì nghe Tiểu Nhạn sẽ tìm đến Trường An gặp lão gia, lại sợ người gặp sơ sót, nên ngày đêm mà trở về đây đưa tin. Cháu nghĩ lão gia nên tìm một hoang thôn tránh đỡ một thời gian. Cháu cùng A Loan sẽ lên đường đến Trường An mà nghinh chiến với Tiểu Nhạn.

Lúc này, Chí Trung vào trong nghe những lời xảo ngôn của Quảng Kiệt, hắn sợ hãi kinh hoàng biến sắc. Lão sư run rẩy toàn thân, cười nhạt nhẽo nói :

– Ta biết đi đâu mà ẩn náu, chỉ còn cách ẩn náu ở trong mồ. Hiện giờ việc đã như vậy cũng không còn cách nào, chỉ có ta đến Trường An tìm hắn, đền mạng già này là xong.

Dứt lời, trợn tròn mắt bảo Chí Trung dắt ngựa. A Loan kéo tổ phụ lại nói :

– Lão gia gia, không được đi gặp hắn, để cháu đi. Cháu gặp hắn không những giết hắn mà còn muốn hỏi vài lời…

Nói đến đây, phương dung của nàng thê lương sầu thảm, thêm sự phẫn nộ đưa nước mắt lăn dài, phẫn nộ, giậm chân nói :

– Lão gia gia đừng ngăn cháu để một mình cháu đi. Cháu muốn đi mà.

Dứt lời, nàng cầm đao chạy vội ra ngoài, tự mình dắt ngựa. Quảng Kiệt chạy theo kéo cánh tay A Loan lại, A Loan giận dữ giật tay ra, vung đao muốn chém hôn phu. Quảng Kiệt tránh né. A Loan tú mục trợn tròn, vung đao chém tới. Quảng Kiệt mọp người, xoay sang bên trái, đồng thời xoè tay định chụp cổ tay của A Loan mà đoạt đao.

Nhưng A Loan nhanh nhẹn tránh né rồi vung đao chém nữa, lòng nghĩ :

“Trước tiên giết Kỷ Quảng Kiệt, sau đó hãy đi giết Giang Tiểu Nhạn”.

Lúc này, Chí Trung tuốt đao chạy đến đỡ lấy đao của A Loan. Bào lão sư cũng giận dữ la lớn :

– A Loan, dừng tay! Hắn là trượng phu của cháu mà?

A Loan nghe lời của tổ phụ như vậy, bèn ném đao, hai tay ôm mặt nức nở, chạy trở vào trong phòng.

Bào lão sư còn cười lớn nói với Chí Trung :

– Chí Trung con xem, lão có tôn nữ và tôn tử tế võ nghệ cao cường như vậy thì còn sợ gì một Giang Tiểu Nhạn!

Chí Trung trầm tư một hồi, rồi nói :

– Hay là mời sư phụ cứ ở lại nơi này, để Quảng Kiệt đến Trường An cùng Cát sư huynh thương lượng phương pháp đối phó. Đồ đệ cũng ở đây nếu Tiểu Nhạn đến thì đồ đệ sẽ ra mặt đối địch.

Quảng Kiệt vừa rồi cơ hồ bị hôn thê giết chết, mặt mày đỏ bừng, đứng cạnh bên giận dỗi không nói. Đến lúc nghe Chí Trung bàn định với lão sư như vậy, hắn mới bước lên khoát tay :

– Không được, không được. Không sợ Giang Tiểu Nhạn trước mặt, chỉ sợ hắn ám toán sau lưng, tiểu điệt đã giao thủ qua Giang Tiểu Nhạn, tuy kiếm pháp hắn không bằng, nhưng khinh công lại hơn tiểu điệt nhiều. Lại nữa, trên đường cũng có nghe nhiều người bảo Giang Tiểu Nhạn là một phi tặc, thuật dạ hành của hắn xuất quỷ nhập thần. Nơi đây không xa Trường An, nếu hắn biết lão gia trú ngụ chốn này, nửa đêm hắn đột nhập sát hại lão gia làm sao ta có thể phòng bị. Lão gia một đời tung hoành ngang dọc, nếu để hắn ám toán như vậy không phải là uổng sao? Theo tiểu điệt nghĩ lão nhân gia nên tìm đến một nơi không ai quen biết mà lánh tạm vài ngày, điệt nhi cùng Loan cô nương đến Trường An, chỉ cần gặp được hắn thì phu phụ chúng cháu tất giết được hắn mà.

Lão sư vừa nghe Tiểu Nhạn biết thuật dạ hành, lão càng sởn tóc gáy. Chí Trung cũng nghĩ hồi lâu, rồi nói :

– Đồ đệ nghĩ nên theo chủ ý của Kỷ cô gia. Đồ đệ sẽ đưa sư phụ đến Lạc Dương huyện, Sơn Âm cốc nhà của Hạ Thiết Tùng. Trước kia sư phụ từng cứu qua mạng lão. Hai mươi năm nay, lão ẩn cư trong núi không xuất diện ra ngoài. Nơi lão ở vừa ẩn mật lại vô cùng yên tĩnh, gia đạo cũng trung lưu. Đệ tử nghĩ sư phụ đến đấy nghỉ ngơi vài tháng, không cho ai hay biết thì Tiểu Nhạn dù có là thần tiên cũng chẳng thể nào rõ được.

Lão sư chợt nhớ đến người bạn già đã lâu không gặp, nên có chút xiêu lòng, nhưng rồi lắc đầu nói :

– Ta không thể đi. Ta đi mà để bọn đồ đệ các con bị Tiểu Nhạn sát hại, lòng ta không yên, ta cũng không sống được.

Quảng Kiệt nói :

– Chỉ cần lão nhân gia chịu đi là xong rồi. Vì hôm đó trước khi cháu và Tiểu Nhạn giao đấu trên Võ Đang sơn, hắn từng tuyên bố không giết hết người Côn Lôn phái, chỉ sát tử lão gia cùng huynh đệ họ Long.

Lão sư thở dài nghĩ đến chuyện Bắc Sơn năm xưa. Mười năm trước nơi Trấn Ba tự mình lĩnh xuất huynh đệ họ Long truy sát Giang Chí Thăng. Cảnh tượng đó như hiển hiện trước mắt. Chí Thăng đã bỏ thê tử mà đào mạng, mình còn truy sát hắn làm gì, thật quá tàn nhẫn. Hiện giờ, Tiểu Nhạn đến báo thù cũng là đúng lý. Thế là, lão sư thở dài mắt hoen lệ gật đầu nói :

– Thôi thì tính như vậy. Ta và Chí Trung tìm nơi trú ẩn. Quảng Kiệt mau đến Trường An gặp Chí Khởi bảo hắn mau về Tử Dương bảo Long ca của hắn và Chí Cường đi tránh né. Sau đó, cháu dặn dò các đồ đệ bất luận là ai gặp Tiểu Nhạn cũng không được giao thủ. Vạn bất đắc dĩ mới liều mạng với hắn. Còn có Hoa Châu Lý Chấn Phi, người đó là bằng hữu của ta, võ nghệ không kém ta, có thể mời môn nhân của lão ra giúp đỡ.

Nói xong, Bào lão cúi đầu trầm mặc. Lão sư dường như đã cảm thấy đến bước đường cùng, dũng khí đã tiêu tan. Quảng Kiệt lại nói :

– Cháu đến Trường An khiêu chiến, tuy tự tin thắng được Tiểu Nhạn nhưng chỉ sợ Lý Phụng Kiệt tìm đến. Nếu hắn giúp Tiểu Nhạn một tay, lúc đó thật là khó xử. Không phải cháu xem thường các môn đồ của lão gia, nhưng cháu cảm thấy Cát Chí Cường và những người kia đều không đắc dụng. Nếu lão gia không bảo Bào cô nương đi với cháu, giúp cháu một tay thì không được.

Lão sư nói :

– Đương nhiên rồi, lão sẽ bảo Loan nhi đi theo, nhưng mà…

Lão sư trầm tư một lát, lại nghiêm mặt nói :

– Tôn nhi không biết đâu. Bào gia ta tuy dựa vào giang hồ mà kiếm cơm, nhưng cũng là người biết lễ nghĩa, nếu tôn nữ ta chưa cùng cháu thành gia thất, ta quyết không thể để cả hai trên đường cùng đi cùng nghỉ, sỉ nhục đến môn phong. Như vậy, hôm nay ở đây lão cho hai người bái đường thành thân. Ngày mai ta đi Lạc Dương, tân nương phu phụ hai cháu cũng sẽ đi Trường An.

Quảng Kiệt đang bực bội, nghe lời này, hắn sung sướng vui mừng đến độ muốn cười vang lên, lập tức gật đầu, gương mặt thật hoan hỷ.

Bào lão bèn ra lệnh cho Chí Trung sớm chuẩn bị tân phòng và bàn tiệc, sắp xếp xong lão quay người đi nghỉ.

Còn A Loan trong phòng lúc này đang ủ dột, u uất âm thầm gạt lệ. Bào lão vào khuyên nhủ :

– Tôn nữ không nên buồn bã. Trách ta trước kia làm điều tàn ác để giờ này liên luỵ đến nhi tôn. Tuy Tiểu Nhạn muốn giết ta, nhưng lão thật khâm phục, hắn đúng là tiểu hảo hán. Nội tổ đã sống đến hơn bảy mươi rồi, mà chưa gặp một người kiên nhẫn và có chí khí như hắn. Ngày mai, nội tổ phải đi Lạc Dương huyện Sơn Âm cốc để tìm nhà một lão bằng hữu là Hạ Thiết Tùng tạm thời ẩn trú ở đó. Nếu mạng già này đào thoát được thì tổ tôn hai ta ngày sau còn gặp lại, bằng như lão có chết trong tay Tiểu Nhạn cũng không ân hận.

A Loan khóc đứng dậy kéo tay tổ phụ nói :

– Tôn nhi sẽ theo gia gia đi.

Lão sư khoát tay nói :

– Không cần đâu, để Chí Trung theo ta được rồi. Còn cháu phải giúp Quảng Kiệt đến Trường An mà ứng chiến với Tiểu Nhạn. Vì để danh chánh ngôn thuận cho hai cháu đồng hành ngày đêm, ta đã quyết định hôm nay cho cháu và Quảng Kiệt bái đường thành thân.

A Loan nghe tổ phụ nói đến đây, mặt hoa biến sắc, hốt hoảng lắc đầu nói :

– Không…

Lão sư khoát tay ngăn lời tôn nữ, nói :

– Bất luận thế nào cháu không được cãi lời nội tổ. Mau chóng hoàn thành hôn sự để ta yên tâm, dẫu có chết cũng nhắm mắt.

Nói rồi lão sư ra ngoài xem mọi người sửa soạn. Đến ngoài viện thấy ai ai cũng rộn rịp lo lắng. Quảng Kiệt cao hứng, bao nhiêu mệt mỏi cũng tiêu tan mà xắn tay hăng hái giúp đỡ mọi người.

Còn Chí Trung nhờ gia quyến của các tiểu quan nhân ở nơi này đến hỗ trợ. Một số phụ nữ thi lo điểm trang cho tân nương.

A Loan một mực im lặng, theo lời chỉ dẫn của mọi người. Bọn nữ nhân chúc mừng nàng, nhưng A Loan chẳng đáp lời chỉ lặng lẽ rơi lệ, lòng luôn bi ai.

Bọn nữ nhân khuyên nhủ :

– Loan cô nương đừng khóc nữa, thế này mắt sẽ đỏ cả, tiểu cô gia nhìn thấy sẽ đau lòng lắm.

A Loan tức giận nhảy bật lên, liệng hết đồ trang điểm ra ngoài, xé nát y phục tân nương, vò rối tóc lên rồi nằm dài trên giường mà khóc nức nở, khiến bọn nữ nhân sợ quá ùn ùn bỏ chạy ra ngoài.

Lúc này trong viện loạn lên. Lão sư biết chuyện tức tối, thở dài đi vào trong phòng nói :

– A Loan tại sao vậy? Đứng dậy đi. Đừng để lão gia đáng thương của cháu phải buồn khổ thêm.

Thanh âm bi thiết của nội tổ đi vào trong lòng A Loan, nàng không nén được nước mắt lại tuôn trào. Nàng có chút hối hận, nên ghìm nỗi thống khổ trong lòng, ngước mặt nói :

– Lão gia đừng buồn. Không có gì, bởi tôn nữ thấy nóng nảy quá, Loan nhi không muốn họ phiền hà như vậy.

Bào lão nói :

– Việc này bắt buộc như vậy rồi. Nữ nhân xuất giá một đời chỉ có một lần, phiền hà cũng phải rán nhịn một chút. Hiện giờ, nửa đường làm lễ thành hôn, nếu không phải sự tình bức đến như vậy, ta cũng không bằng lòng làm như vầy. Tuy nói không phải quá câu nệ, nhưng quy củ, lễ nghĩa cũng không thể quá sơ lược. Cháu cũng phải trang điểm ra vẻ một tân nương, đừng để người giang hồ chê cười.

Lúc này Quảng Kiệt đứng bên ngoài nhìn trộm vào trong nghe ngóng một hôi thì Bào lão ra ngoài xin lỗi với các nữ nhân bị kinh động, mong họ vào trang điểm lại cho A Loan.

Mấy nữ nhân tuy không vui nhưng cũng không có cách chối từ đành theo nhau vào sửa soạn cho A Loan, nhưng tất cả hoàn toàn im lặng không dám chuyện trò với tân nương câu nào.

Bào lão vào trong nhìn xem, thấy A Loan đã chịu ngồi yên, lão sư giờ mới an tâm nhưng vẫn phiền não, bước ra vẫn chau mày, than thở còn Kỷ Quảng Kiệt trái lại cao hứng vô cùng. Thấy đông phòng có ba gian hai sáng một tối hiện đã bố trí thành tân phòng.

Căn phòng tối, dùng làm phòng hoa chúc, giường đã trải vải hồng, gối loan phụng, trên tường và cửa đã dán chữ song hỷ.

Quảng Kiệt lòng mừng khấp khởi hận trời không tối ngay để mình cùng A Loan sớm thành phu thê.

Bắc phòng là hỷ đường, trong đó đã đặt thần vị hương án, khắp nơi đều trang hoàng toàn màu đỏ. Trong phòng bày biện bàn ghế rất nhiều dành cho khách dự. Trong bếp chuẩn bị rộn rịp ồn ào; không khí thực là náo nhiệt.

Lúc này,Chí Trung đi vào đem theo bao đồ trong đó chứa quần áo giày nón của tân lang.

Quảng Kiệt vận quần áo chỉnh tề rồi ngồi đứng không yên, chốc chốc lại nhìn vào trong viện.

Khoảng bốn giờ chiều, tiểu quan lại, tiêu đầu khắp nơi vì coi trọng Chí Trung và ngưỡng mộ thanh danh Bào Chấn Phi lão sư, nên lũ lượt kéo đến chúc mừng.

Chí Trung và thủ hạ ăn mặc chỉnh tề thay Quảng Kiệt mà tiếp khách. Còn Bào lão sư thấy khách đến, tươi cười chào hỏi, duy chỉ có Chí Trung nhìn thấy nét tươi cười của sư phụ có vẻ miễn cưỡng. Thực sự, tâm tình của Bào lão sư luôn lo sợ, ưu phiền. Mỗi lần có khách đến là người trẻ tuổi, lão để tăm chăm chú quan sát, kéo Chí Trung sang bên hỏi danh tính nghề nghiệp người đó, dường như lão sợ có người mang tâm địa bất lương thừa cơ hỗn tạp vào phá hoại hôn lễ.

Còn Quảng Kiệt thì vô cùng vui sướng, hoan hỷ. Hắn cùng mấy tiêu đầu tiếp chuyện trò. Trước tiên, hắn kể những sự tích bình sinh của tổ phụ Long Môn Hiệp rồi hắn kể những chiến tích của mình đã làm trong giang hồ gần đây, lại còn nói đến chuyện viết chữ tróc nã Giang Tiểu Nhạn khắp nơi nhưng Tiểu Nhạn không dám lộ diện đối địch, cuối cùng hắn bức được Tiểu Nhạn lên núi Võ Đang đánh cho Tiểu Nhạn phải nhảy xuống suối đào thoát bằng không đã bị hắn lấy tánh mạng.

Mọi người nghe tân lang nói chuyện hào hứng như vậy cứ tin là thật, vì nghĩ rằng đích tôn của Long Môn Hiệp đánh một Tiểu Nhạn vô danh tiểu tốt là chuyện không có gì phải đáng nghi ngờ. Nhưng Chí Trung đứng bên cạnh nghe hắn khoe khoang lòng thoáng nghi hoặc cảm thấy lời này khó tin đồng thời cũng cảm thấy Chí Viễn, Chí Diệu chưa trở về càng đáng nghi hơn nhưng vì hiện nay tình hình khẩn bức nên Chí Trung cũng giả vờ tin tưởng không truy vấn làm gì.

Lúc này, nơi góc bàn xa xa, Bào lão sư một mình ngồi suy tưởng, gương mặt già nua nhăn nhó, lòng đang âu lo phiền não nên những lời Quảng Kiệt huênh hoang lão đều không nghe thấy.

Thoáng chốc đã đến giờ làm lễ bái đường. Quảng Kiệt đứng lên. Hai nữ nhân bước ra đỡ A Loan chầm chậm đi vào hỷ đường.

A Loan phủ một miếng lụa hồng trên mặt nên không nhìn được nàng buồn hay vui nhưng như có chút chút gì như nước từ trong khăn che mặt rơi xuống ngực, xuống hài của nàng.

Người xướng lễ đứng bên cạnh xướng lớn :

– Bái thiên địa! Bái tổ tiên! Bái phụ mẫu!

Quảng Kiệt và A Loan liên tiếp khấu đầu.

Cuối cùng lễ bái đường cũng đã trôi qua. A Loan được dìu vào để làm lễ động phòng.

Bào lão sư cũng vào phòng thanh tịnh mà nghỉ ngơi. Chí Trung và tiêu đầu thay nhau chiêu đãi khách khứa. Quảng Kiệt cũng bị lôi kéo để chuốc rượu mừng, dầu hắn cảm thấy chếnh choáng mơ màng, lòng thấy nóng nảy, hận không thể đuổi bọn này đi về để mình sớm vào tân phòng hội kiến cùng A Loan.

Đám thực khách ăn uống xong lại chuyển sang đánh bạc. Chí Trung kéo một người họ Lương đến nói thật :

– Sư phụ giữa đường mà làm lễ cho tôn nữ vì muốn hai người họ làm xong hỷ sự này để họ cùng đến Trường An ứng chiến địch nhân là Giang Tiểu Nhạn. Lão sư ngày mai cũng đi nơi khác rồi. Vì vậy tuy làm hỷ sự nhưng lòng ai nấy ưu phiền âu lo. Mọi người đến đây chúc mừng đương nhiên là hảo ý nhưng mong rằng các bằng hữu cảm thông mà nghỉ ngơi sớm để lão gia ngủ yên ngày mai lên đường.

Họ Lương gật đầu nói :

– Được! Ta đã có cách rồi.

Thế là hắn bước qua gọi mọi người đến tiêu điếm hắn mà đánh bạc. Khách khứa lũ lượt ra về. Chí Trung dặn dò đóng cửa và bảo tiêu đầu ở lại đây giữ gìn không để họ náo loạn tân phòng.

Trời đã canh hai. Bào lão ngủ ở quỹ phòng. Trừ ở hỷ phòng đốt hai ngọn đèn hồng ra, chỉ có trên cửa sổ dán giấy đỏ ở tân phòng là còn dao động một ngọn đèn mờ ảo. Đây là ngọn Trường mệnh đăng theo phong tục đêm nay tuyệt nhiên không được để tắt.

Quảng Kiệt lúc này đã thay bộ lễ phục tân lang ra mà mặc vào bộ lụa trắng thanh lịch. Lòng hắn hứng khởi lẫn cả khẩn trương, trước nay chưa từng xảy ra.

Trước bước chân nặng nề và chậm chạp, biểu thị là tân lang đã đến rồi,cố ý cho tân nương trong phòng biết nhưng vừa đến trước cửa sổ thì ngọn Trường mệnh đăng trong phòng đã đột ngột tắt ngấm. Quảng Kiệt giật mình rồi cười, lòng nghĩ :

“Vị nữ hiệp hành tẩu giang hồ này đã mấy lần cùng ta gặp mặt, cùng ta ở Vi Nam chiến đấu chống Lý Phùng Kiệt, tại sao giờ này nàng còn hổ thẹn như vậy?”.

Nghĩ thế hắn càng cảm thấy vui vẻ càng cảm thấy khả ái. Hắn nhè nhẹ tằng hắng một tiếng, đi vào trong. Thấy trong tối đen âm u, Quảng Kiệt đi vào vấp phải một cái bàn cơ hồ muốn té. Quảng Kiệt cười nhẹ giọng nói :

– Nàng muốn đùa cợt tân lang à?

Lại bước lên hai bước, chợt nghe “Bũm” một tiếng, nước văng tung tóe, thì ra dưới đất đã đặt sẵn một thau nước bị Quảng Kiệt đạp nhầm làm nước bắn tung tóe, ướt cả y phục của hắn, lòng hắn không khỏi cảm thấy ảo não nhưng cũng thấy buồn cười hơn. Bước lên đẩy cửa nhưng bên trong đã đóng rất chặt. Quảng Kiệt gõ cửa nhè nhẹ nói :

– Mở cửa, ta đây!

Bên trong vẫn im lìm, Quảng Kiệt lại cung quyền đấm nhè nhẹ hai, ba cái gọi vọng vào :

– Mở cửa! Đừng xấu hổ như vậy tân nương của ta.

Bên trong vẫn không tiếng đáp. Quảng Kiệt cười lớn đẩy cửa, miệng nói :

– Đừng đùa nữa. Trời không còn sớm đâu. Đây là đại sự cả đời người.

Đột nhiên, tân nương bên trong thét lên :

– Cút mau! Không được vào đây.

Quảng Kiệt ngoài cửa cười nói :

– Tân nương lợi hại thật, dám bảo tân lang cút đi. A Loan tân nương của ta. Lương duyên của chúng ta là do thiên định mà.

Bên trong lại có tiếng giận dữ, nóng nảy của A Loan :

– Cút mau!

Quảng Kiệt càng cười lớn, đồng thời không đẩy cửa mà hắn nghỉ một lát rồi ngồi xổm xuống, hai tay nhè nhẹ đưa vào tìm cách đẩy chốt cửa. Chẳng bao lâu, cửa đã mở ra. Chợt nghe “vù, vù”, thì ra bên trong cửa đã treo hai cái ghế rơi xuống suýt đập trúng Quảng Kiệt, hắn nhanh nhẹn bay thẳng vào trong thì gặp một luồng hàn quang lạnh lẽo chém tới mình. Quảng Kiệt vội nghiêng người tránh né. Chỉ nghe “Bụp” một tiếng, đao của tân nương không chém trúng tân lang mà bổ nhằm vào ghế.

Quảng Kiệt nói :

– Được! Trước tỷ võ sau hãy thành thân.

Hắn đưa tay chụp cổ tay A Loan định cướp Côn Lôn đao. A Loan tung một cước đá vào bụng Quảng Kiệt khiến Quảng Kiệt thoái lui một bước. A Loan lại vung đao phẫn hận chém đến. Quảng Kiệt vội mọp người lăn tròn dưới đất định ôm chân A Loan. Nào ngờ, A Loan một cước đạp vào mặt trái của hắn, Quảng Kiệt đau đến muốn thét lên, vội vã lại lăn người đi. A Loan lại vung đao chém nữa. Quảng Kiệt lập tức bay ra ngoài phòng nhưng trên vai đã lãnh một sống đao nặng nề, sau lưng lại hứng thêm một cước đá bay ra khỏi phòng.

Nhưng hắn tức thời đứng bật dậy hầm hầm nói vọng vào trong :

– A Loan, như vầy là ý gì? Nàng muốn hại tính mạng ta sao? Lão gia gia đã gả nàng cho ta, giờ ta đã là trượng phu của nàng mà.

A Loan trong phòng vẫn vung đao vun vút mắng :

– Cút mau! Cút mau! Ta không biết mi.

Quảng Kiệt nổi giận nhưng lại mỉm cười, lòng nghĩ :

“Nàng vốn là nữ nhi một tiêu sư, bình sinh kiêu ngạo cực Kỷ. Nếu ta không dùng võ nghệ chế phục nàng tất chẳng cam tâm ưng thuận. Được rồi! Trước đánh sau sẽ thành thân”.

Thế là hắn vào phòng kế bên tìm một thanh bảo kiếm, đốt đèn cầm qua tân phòng thì thấy cửa phòng lại đóng chặt rồi. Quảng Kiệt đặt đèn xuống đất tìm cách mở cửa nhưng lại sợ bên trong có mai phục gì nên hắn cầm kiếm đứng đó nghiêng tai nghe ngóng bên trong thì nghe tân nương đang rấm rức, đau khổ khóc lóc.

Quảng Kiệt ngạc nhiên thầm nghĩ :

“Đây là chuyện gì vậy?”.

Đang đứng đó thì thấy một người từ bên kia bước qua. Quảng Kiệt nhìn xem ra là Chí Trung.

Chí Trung dường như biết rõ họ đã đánh nhau và A Loan đang khóc trong phòng, hắn khoát tay nói với Quảng Kiệt :

– Kỷ cô gia, xin nhẫn nại một chút. Tính khí cô nương trước nay cao ngạo. Tuy là hỷ sự nhưng lòng nàng thực là buồn bã vì ngày mai tổ tôn hai người đã phải phân ly. Lão nhân gia tuổi già như vậy lại phải ly hương sống nhờ bằng hữu chốn non cao, nàng dĩ nhiên không yên tâm. Đêm nay, Kỷ cô gia đừng nổi giận với nàng, vài ngày sau tất Loan cô nương sẽ bình tâm lại. Khi chưa đánh bại Tiểu Nhạn, tổ tôn hai người chưa thể an nhàn, nên nàng quyết không thể vui được. Như vậy cũng hết cách rồi, chỉ cần Kỷ cô gia kiên tâm một chút.

Quảng Kiệt gật đầu, chau mày rồi nói với Chí Trung :

– Như vậy thì không gấp. Chỉ là…

Hắn muốn nói tân nương vừa rồi ra tay ác độc dường như mình là kẻ thù của nàng nhưng nghĩ lại, hắn nói :

– Được rồi, Lỗ sư thúc nghỉ ngơi đi, đừng lo lắng. Tiểu điệt quyết không náo sự với nàng. Tiểu điệt biết nàng đang phiền não mà.

Chí Trung nhìn thấy bộ áo lụa đẹp đẽ trên người Quảng Kiệt, giờ đã lấm lem bùn nước, đầu tóc rối bời, mắt trái sưng vù, Chí Trung không dám cười cũng không dám hỏi, quay người đi ra.

Lúc này, Quảng Kiệt đứng thẫn thờ bên ngoài, hồi lâu, rồi bước đến cửa tân phòng dùng tay đẩy một cái, chỉ nghe tân nương trong phòng không khóc nữa, chỉ còn lại thanh âm tấm tức.

Quảng Kiệt đứng bên ngoài nhẹ nhàng nói :

– A Loan, nàng đừng thương tâm, ta không nổi giận với nàng đâu. Gả nàng cho ta là chủ ý của lão gia gia không phải ta cầu thân với Bào gia đâu, bây giờ chúng ta đã bái đường, hôn sự đã định. Đêm nay, nàng không để ta vào phòng cũng không sao. Ta hiểu, Bào gia nàng hiện nay bị Tiểu Nhạn bức đến tuyệt lộ rồi, ta rất thương cảm. Lòng nàng không vui, ta có thể tha thứ cho nàng nhưng nàng hãy tin ta trong vòng mười ngày sẽ giết chết Tiểu Nhạn để cho nàng nhìn xem. Giờ ta không muốn nhiều lời nữa.

Trong phòng lúc này phảng phất như A Loan càng đau khổ thương tâm hơn, nàng nghẹn ngào khóc. Quảng Kiệt lòng thập phần ảo não rồi thở dài một tiếng. Hắn kéo mấy chiếc ghế bên ngoài phòng đặt cạnh nhau, kiếm bên thân, ngồi ủ rũ hồi lâu rồi nằm xuống than thở, rầu rĩ thiếp ngủ. Đêm động phòng hoa chúc của hắn đã trải qua như vậy.

Sáng sớm hôm sau, mặt của Quảng Kiệt vẫn ưu sầu. Cửa tân phòng đã mở ra. Hai mắt A Loan vì khóc cả đem nên sưng mọng. Nàng ra khỏi phòng không nhìn Quảng Kiệt chút nào mà đi vào trang viện.

Quảng Kiệt vô cùng bất mãn. Có một tên tiêu đầu không hiểu việc nên nói với Quảng Kiệt :

– Kỷ cô gia, đêm qua làm sao trong phòng lại ồn dữ vậy? Kỷ cô gia vui vẻ rồi.

Rồi hắn dùng tay chỉ vào mắt trái Quảng Kiệt nói :

– Ái chà! Mắt của cô gia sao xanh quá vậy? Để vậy hại mắt lắm. Để tôi sẽ ra chợ mua thuốc về đắp mắt cho cô gia nhé.

Quảng Kiệt nổi giận tát cho tên này một cái, hắn kêu “ây da” một tiếng.

Lúc này, Chí Trung bước đến hòa nhã nói :

– Lão sư phụ hỏi Kỷ cô gia hôm nay định chừng nào lên đường, để Loan cô nương chuẩn bị.

Quảng Kiệt nóng nảy nói :

– Đi ngay. Ta hận không thể gặp được Tiểu Nhạn. Trừ phi hắn chết nếu không là ta tử mạng.

Chí Trung vội trở về nói với sư phụ. Quảng Kiệt cho người chuẩn bị ngựa, còn mình vào phòng thu thập hành lý. Chờ một khi hành lý thu thập xong, A Loan bên kia cũng đã chuẩn bị rồi. Nàng vẫn mặc chiếc áo màu hồng đứng trong viện cúi đầu.

Quảng Kiệt nhìn dáng dấp mỹ lệ của nàng thì quên hết cái đá, cái tức giận đêm qua, nhìn nàng cười mà ra khỏi phòng.

Bào lão sư nhìn tôn nữ rồi nhìn tôn tế, lão cảm khái thở dài nói :

– Được. Lần này coi như hai cháu đã gánh lấy mối thù này cho Bào gia, đau thương vô tình bất hạnh các con khó tránh khỏi thiệt hại. Tuy lão già ta không yên tâm nhưng cũng hết cách rồi, vì các cháu vô phần phải làm tôn tử, tôn tế Bào gia. Ta phải đi đến lão bằng hữu mà lẩn tránh. Hai cháu lên đường thì lão cũng khởi hành. Ta đã già, thế này không chừng nửa đường đã mệnh vong rồi…

Nói đến đây thì thấy tôn nữ lệ tuôn dầm dề. Quảng Kiệt ngạo nghễ nói :

– Lão gia hà tất phải nói những lời đau buồn này. Tôn nhi nghĩ hiện giờ Giang Tiểu Nhạn đã đến Trường An rồi, phu thê cháu đến đó nhất định sẽ giết chết được hắn. Lão gia lần này đi về phía tây bất quá là đi chơi xa một chuyến không cần buồn bã như vậy cũng không cần lo lắng cho hai cháu.

Lão sư cười thê thảm, rồi từ trong ngực áo lấy ra hai phong thư nói :

– Hai phong thư này các cháu mang đến Trường An, một giao cho Cát Chí Cường, còn phong còn lại, vạn bất dĩ không địch nổi Giang Tiểu Nhạn thì giao cho hắn.

Dứt lời đưa thư cho Kỷ Quảng Kiệt. Quảng Kiệt tiếp lấy, thấy phong thư của Cát Chí Cường rất nặng, dường như bên trong chứa rất nhiều lá thư. Hai phong thư đều dán rất chặt. Hắn cất vào người rồi sau đó nói với Bào lão sư :

– Lão gia! Lão nhân gia bất tất phải dặn nhiều. Việc gì cháu cũng có thể làm được. Chúng cháu đi đây. Lão nhân gia, tạm biệt.

A Loan nuốt nước mắt bái lạy tổ phụ một cái.

Quảng Kiệt ngang nhiên bước ra khỏi cửa. A Loan cũng bước theo sau.

Ngoài cửa tiêu điếm đã chuẩn bị sẵn hai tuấn mã. A Loan bước lên hồng mã, mắt nhìn nội tổ và Lỗ Chí Trung ra ngoài đưa tiễn khóc nói :

– Gia gia và Lỗ sư thúc xin trở lại.

Quảng Kiệt treo bảo kiếm bên yên ngựa xong, hắn cũng nhẹ nhàng nhảy lên lưng ngựa, sau đó ôm quyền cười nói :

– Xin mọi người hãy trở về. Tạm biệt. Tạm biệt!

Rất nhiều người đưa tiễn, ngưỡng mộ đôi phu phụ hiệp nghĩa mới vừa kết bái này. Hai tuấn mã phi nhanh xa dần trong ánh mắt tiễn đưa lưu luyến của người thân.

A Loan trên lưng ngựa không ngừng ngoảnh đầu lại rưng rưng nước mắt khoát tay nói :

– Gia gia mau về đi.

Ngựa của Kỷ Quảng Kiệt phía trước càng lúc càng xa, nàng đành phải thúc ngựa chạy theo. Bóng tổ phụ cũng đã khuất dần phía sau lưng.